Tiểu luận: Những thành tựu của nền văn minh Trung Quốc |Traloitructuyen.com

Or you want a quick look: LỜI MỞ ĐẦU

Traloitructuyen.com cũng giúp giải đáp những vấn đề sau đây:

  • Bài Tiểu luận về Trung Quốc
  • Tiểu luận về văn hóa Trung Quốc
  • Tiểu luận về nền văn minh Trung Quốc
  • tiểu luận: những thành tựu của nền văn minh trung quốc
  • Tiểu luận văn học Trung Quốc
  • Tiêu luận về kiến trúc Trung Quốc
  • Tiểu luận về nền văn minh Trung Quốc cổ đại
  • Tiểu luận phát triển kinh tế Trung Quốc
tiểu luận về thành tựu văn minh trung quốc

tiểu luận về thành tựu văn minh trung quốc

 
 
 
Cửa chính Ngọ môn ở mặt Nam là nơi hoàng đế kiểm duyệt quân đội. Qua khỏi Ngọ môn là một đại viện, kim thủy hà xuyên ngang, trên sông có năm cầu đá cẩm thạch, đạo diện cho ngũ đức.Sau năm 1949, Tử Cấm Thành được đổi làm Viện bảo tàng Cố Cung. Đây là hoàng cung của chế độ phong kiến trung Quốc suốt 500 năm. Quy mô to lớn, phong cách đẹp mắt, kiến trúc rộng lớn, bày biện sang trọng, Tử Cấm Thành là viên ngọc vĩ đại của kiến trúc Trung Quốc. Hàng năm, Cố Cung này có đến 10 triệu lượt khách tham quan. Năm 1987, UNESCO tuyên bố Tử Cấm Thành là một trong những di sản văn hóa thế giới. Tử Cấm Thành là biểu tượng của đất nước Trung Hoa cổ đại và là một điểm đến không thể bỏ qua đối với bất kì ai đặt chân đến đất nước nay.

Tóm tắt nội dung:

LỜI MỞ ĐẦU

Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, con sông Hoàng Hà đã trở thành biểu tượng “cái nôi” của nền văn minh Trung Quốc. Đây cũng là một trong những nơi từ rất sớm đã có loài người cư trú. Vì thế cùng với sự biến động của dòng chảy lịch sử và những đóng góp về sự sáng tạo của những thế hệ người dân Trung Quốc, nhân dân nước này đã tạo nên một nền văn hóa vô cùng rực rỡ so với thế giới đương thời trong đó phải kể đến những thành tựu nghệ thuật về kiến trúc. Đó là một nền văn minh có ảnh hưởng rất lớn không chỉ đối với các nước lân cận trong đó có Việt Nam chúng ta mà còn ảnh hưởng đến các nền văn minh khác trên thế giới như Ấn Độ, Ả Rập…Vì vậy, việc tìm hiểu những công trình kiến trúc nổi bật của nền văn minh Trung Quốc không chỉ giúp ta hiểu hơn về những giá trị to lớn mà còn đưa chúng ta bước vào thế giới của sự sáng tạo không ngừng của người dân Trung Quốc. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này chúng em xin chọn đề tài cho bài tập nhóm của mình như sau: “ Đặc điểm và những thành tựu tiêu biểu trong lĩnh vực kiến trúc của Trung Quốc cổ trung đại.” Do kiến thức còn nhiều hạn chế nên trong bài làm không thể tránh khỏi những sai sót. Rất mong thầy cô đóng góp ý kiến để chúng em có thể hoàn thiện đề tài tốt hơn. Chúng em xin chân thành Thank !

NỘI DUNG

I. Khái quát nền văn minh Trung Quốc cổ trung đại nói chung và những thành tựu tiêu biểu trong lĩnh vực kiến trúc của Trung Quốc cổ trung đại nói riêng


Trung Quốc là một trong những cái nôi văn minh nhân loại sớm nhất. Văn minh Trung Quốc cũng là một trong số ít các nền văn minh, cùng với Lưỡng Hà cổ (người Sumer), Ấn Độ (Văn minh lưu vực sông Ấn Độ), Maya, và Ai Cập cổ đại tự tạo ra chữ viết riêng. Trong suốt quá trình phát triển của mình, nền văn minh Ấn Độ đã có rất nhiều thành tựu quan trọng ảnh hưởng mạnh mẽ đến các nền văn minh khác như thành tựu về chữ viết, về văn học, sử học, khoa học tự nhiên, tôn giáo... Đây cũng là nơi ra đời của Tứ đại phát minh về kĩ thuật (bao gồm: giấy, kĩ thuật in, thuốc súng, kim chỉ nam) có vai trò và ý nghĩa hết sức to lớn. Đặc biệt là những thành tựu về nghệ thuật. Nghệ thuật của Trung Quốc rất phong phú và đặc sắc bao gồm nhiều mặt, trong đó nổi bật nhất là ngành kiến trúc. Đây là một bộ phận của nền văn hoá Trung Hoa phát triển từ rất sớm và rất độc đáo, bao gồm các thể loại như: kiến trúc nhà ở, thành quách, cung điện, lăng mộ, đàn miếu, phòng ngự…

II. Đặc điểm của kiến trúc

Trung Quốc cổ trung đại Kiến trúc Trung Quốc cổ trung đại chủ yếu được cấu thành từ gỗ và đá kết cấu “tứ hợp diện”. Tác phẩm điêu khắc được gia công trên bức tường, trần nhà của loại hình kiến trúc đó.Như đã nói ở trên, kiến trúc Trung Quốc cổ trung đại rất phong phú và đặc sắc, bao gồm các thể loại như: kiến trúc nhà ở, thành quách, cung điện, lăng mộ, đàn miếu, phòng ngự… Những kiến trúc cổ đại này sinh ra và lớn lên trong nền văn hoá truyền thống Trung Quốc (Từ thế kỷ thứ II TCN đến giữa thế kỷ XIX) đã hình thành một hệ thống khép kín độc lập, có giá trị thẩm mỹ và trình độ công nghệ cao hàm chứa ý nhân văn sâu sắc. Nghệ thuật kiến trúc Trung Quốc cổ trung đại là một hệ thống nghệ thuật độc đáo có lịch sử lâu dài nhất, phân bố địa vực rộng lớn nhất, phong cách rõ rệt nhất trên thế giới, ảnh hưởng trực tiếp đối với kiến trúc cổ Nhật, Triều Tiên và Việt Nam, sau thế kỷ XVII, còn ảnh hưởng tới kiến trúc Châu Âu. Trung Quốc đất đai rộng lớn, nhiều dân tộc, người TQ ngày xưa căn cứ điều kiện tự nhiên, địa lý khác nhau, sáng tạo ra kiến trúc cổ đại với phương thức kết cấu khác nhau và phong cách nghệ thuật khác nhau. Tại lưu vực sông Hoàng Hà ở miền Bắc, người ta dùng gỗ và hoàng thổ xây nhà để chống lại giá lạnh và gió tuyết; còn ở miền Nam, vật liệu kiến trúc còn bao gồm tre và lau sậy, để tránh ẩm ướt và tăng cường lưu thông không khí, ở một số nơi còn dựng nhà sàn. Về mặt kiến trúc thì nghệ thuật kiến trúc Trung Quốc đặt nền tảng bởi triết lý về vũ trụ, phong thủy và nhân sinh, trong mỗi công trình xây dựng (nhà, vườn, lầu các, đền chùa cho đến miếu mộ,…) phải hài hòa với thiên nhiên. Người xây dựng luôn luôn phải nắm lấy cái hình thể toàn cảnh của vùng đất: sự hiện diện của bất kỳ ao hồ, khe suối nào đó; kiểu dáng và số lượng của các loài thảo mộc đã được nghiên cứu rồi sau đó mới bố trí việc xây dựng cho thật hòa hợp với tự nhiên.


III. Một số công trình kiến trúc tiêu biểu của Trung Quốc cổ trung đại

Khi nói đến những thành tựu kiến trúc Trung Quốc cổ trung đại, ta có thể kể đến một số công trình kiến trúc tiêu biểu sau:Thứ nhất, là Vạn lý trường thành. Vạn Lý Trường Thành (chữ Hán giản thể: 万里长城; phồn thể: 萬里長城; Bính âm: Wànlĭ Chángchéng; có nghĩa là "Thành dài vạn lý") là bức tường thành nổi tiếng của Trung Quốc liên tục được xây dựng bằng đất và đá từ thế kỷ 5 TCN cho tới thế kỷ 16, để bảo vệ Đế quốc Trung Quốc khỏi những cuộc tấn công của người Mông Cổ, người Turk, và những bộ tộc du mục khác đến từ những vùng hiện thuộc Mông Cổ và Mãn Châu.“Bất đáo Trường Thành phi hảo hán” (Không đến Trường Thành không phải là anh hùng) là câu nói cửa miệng của người Trung Quốc. Vạn lý Trường Thành (tức Trường Thành) là công trình kiến trúc vĩ đại nhất, là một trong những biểu tượng mạnh mẽ nhất của Trung Quốc, và là niềm tự hào của dân tộc này. Vạn Lý Trường Thành như một con rồng dài 6.700 km trải dài từ Đông sang Tây, băng qua sa mạc, đồng cỏ, núi non (có nơi cao hơn 1.000 mét) và là chứng nhân về lịch sử, văn hóa, sự phát triển trong suốt 2.400 năm lịch sử của Trung Quốc .Vẻ đẹp có một không hai của Vạn Lý Trường Thành, công trình phòng thủ nổi tiếng thế giới được xây dựng trải qua nhiều triều đại trong lịch sử Trung Quốc. Vạn Lý Trường Thành có 4 phần cơ bản, đó là: tường thành, cửa ải, tháp canh và phong hỏa đài. Trong đó nổi tiếng nhất là phần tường thành do Hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc là Tần Thủy Hoàng ra lệnh xây từ năm 220 trước Công nguyên và 200 trước Công nguyên, nằm ở phía Bắc, xa hơn phần Vạn Lý Trường Thành hiện nay của Trung Quốc xây dưới thời nhà Minh, và hiện chỉ còn sót lại ít di tích Thành tựu thứ hai, phải kể đến là Tử Cấm Thành - thành trong thành - là trung tâm Bắc Kinh với mái nhà ngói lưu ly màu vàng, sông hộ thành và tường vây ngăn màu đỏ ngăn cách thế giới bên ngoài, khiến dân chúng không thể đến gần. Tử Cấm Thành là quần thể kiến trúc bằng gỗ cổ đại quy mô lớn nhất, hoàn chỉnh nhất hiện còn trên thế giới. Tử Cấm Thành hình vuông, bố cục lấy tuyến giữa chính Nam, chính Bắc đối xứng, chung quanh là con sông hộ thành rộng và tường cao 9 mét. Trong thành bố trí một cách đối xứng cung điện, cửa, viện, sông nhỏ và đình viên. Tổng cộng ...

Như vậy với những ưu thế nổi vốn có của mình thì Trung Quốc đã có một nền văn minh vô cùng rực rỡ về nhiều mặt, trong đó nổit bật như chữ viết, văn học, sử học , khoa học –tự nhiên Đặc biệt Trung Quốc rất coi trọng việc giáo dục con người thể hiện trong việc mở các trường học và tổ chức các khoa cử trong các triều đại trước.Với một đất nước có bề dày về mặt lịch sử, bề rộng về mặt địa lý, ngay từ thời cổ đại Trung Quốc đã có những phát minh lớn có tiếng vang và ảnh hưởng đến cả thế giới, trong đó tiêu biểu nhất là giấy, la bàn,thuốc nổ Việc phát minh ra giấy là một cuộc cách mạng trong truyền bá chữ viết, trao đổi tư tưởng và phổ biến kiến thứcNhững phát minh đó cho thấy con người Trung Quốc rất năng động, sáng tạo.Hơn nữa, suốt 5000 năm tồn tại và phát triển, văn minh Trung Quốc không chỉ có ảnh hưởng đến các dân tộc châu Á,mà còn có những đóng góp lớn cho tiến trình phát triển của văn minh loài người.Những phát minh lớn của Trung Quốc trong lịch sử khoa học -kĩ thuật của thế giới.những phát minh đó đã làm thay đổi bộ mặt thế giới,loại thứ nhất trên bình diện văn học , loại thứ hai trên bình diện chiến tranh, loại thứ ba trên bình diện hàng hải Từ một nước nghèo nàn ,lạc hậu thì Trung Quốc đã phấn đấu đi lên thành một nước có chỉ số phát triển đầu người cao nhất thế giới. Chính trị từ khủng hoảng đến ổn định. Những đóng góp của văn minh Trung Quốc cho nhân loại là rất lớn,chúng ta không thể phủ nhận nó. Thực tế đã cho thấy điều đó.

Tiểu luận: Những thành tựu của nền văn minh Trung Quốc mẫu 2

  1. Lịch sử văn minh thế giới Tiểu luận NHỮNG THÀNH TỰU CỦA NỀN VĂN MINH TRUNG QUỐC.
  2. Lịch sử văn minh thế giới
  3. LỜI MỞ ĐẦU
  4. Như vậy với những ưu thế nổi vốn có của mình thì Trung Quốc đã có một nền văn minh vô cùng rực rỡ về nhiều mặt, trong đó nổit bật như chữ viết, văn học, sử học , khoa học –tự nhiên…Đặc biệt Trung Quốc rất coi trọng việc giáo dục con người thể hiện trong việc mở các trường học và tổ chức các khoa cử trong các triều đại trước. Với một đất nước có bề dày về mặt lịch sử, bề rộng về mặt địa lý, ngay từ thời cổ đại Trung Quốc đã có những phát minh lớn có tiếng vang và ảnh hưởng đến cả thế giới, trong đó tiêu biểu nhất là giấy, la bàn,thuốc nổ…Việc phát minh ra giấy là một cuộc cách mạng trong truyền bá chữ viết, trao đổi tư tưởng và phổ biến kiến thức Những phát minh đó cho thấy con người Trung Quốc rất năng động, sáng tạo.Hơn nữa, suốt 5000 năm tồn tại và phát triển, văn minh Trung Quốc không chỉ có ảnh hưởng đến các dân tộc châu Á,mà còn có những đóng góp lớn cho tiến trình phát triển của văn minh loài người.Những phát minh lớn của Trung Quốc trong lịch sử khoa học -kĩ thuật của thế giới.những phát minh đó đã làm thay đổi bộ mặt thế giới,loại thứ nhất trên bình diện văn học , loại thứ hai trên bình diện chiến tranh, loại thứ ba trên bình diện hàng hải… Từ một nước nghèo nàn ,lạc hậu thì Trung Quốc đã phấn đấu đi lên thành một nước có chỉ số phát triển đầu người cao nhất thế giới. Chính trị từ khủng hoảng đến ổn định. Những đóng góp của văn minh Trung Quốc cho nhân loại là rất lớn,chúng ta không thể phủ nhận nó.Thực tế đã cho thấy điều đó. Ảnh của nền văn minh Trung Quốc là rất lớn,trong đó không thể ngoại trừ Việt Nam.Việt Nam cần học tập con người Trung Quốc về sự nhạy bén với thời cuộc,sáng tạo hơn nữa trong các lĩnh vực. Với những thành tựu đó,ngừơi Trung Quốc hoàn toàn có thể ngẩng cao đầu trên trường quốc tế,ngừơi Trung Quốc có thể tự hào về con ngừơi và đất nước mình.Trung Quốc xứng đáng để cả thế giới ngưỡng mộ và học tập. Nhóm Glory 2
  5. Lịch sử văn minh thế giới
  6. NHỮNG THÀNH TỰU CỦA NỀN VĂN MINH TRUNG QUỐC.
  7. 1/Chữ viết
  8. Cũng giống như các quốc gia khác, ban đầu phương tiện giao tiếp chủ yếu để biểu đạt tình cảm, truyền đạt tin tức, trao đổi kiến thức và kinh nghiệm của người Trung Quốc cổ xưa là cách truyền miệng vào các thời trước thời Hoàng Đế. Đến thời Hoàng Đế người ta đã kết dây thừng (thắt dây), tức là dùng dây thắt nút để ghi nhớ điều gì đó. Việc lớn thì thắt nút lớn, việc nhỏ thì thắt nút nhỏ. Đây là một phương pháp sơ khai để ghi nhớ sự việc mà không chỉ người Trung Quốc biết làm. Khoảng thiên nhiên kỉ II tr.cn, người Ân Thương đã có chữ viết, đó là văn tự giáp cốt.Giáp là mai rùa, cốt là xương thú, giáp cốt văn tự là khắc trên mai rùa hoặc xương thú. Giáp cốt văn có niên đại sớm nhất tìm được là thuộc triều Võ Đinh ( khoảng 1324 – 1266 tr.cn ); tài liệu này còn có tên là giáp cốt văn Ân Khư vì đào được ở Ân Khư. Chữ trên giáp cốt là loại chữ tượng hình nhưng dần do yêu cầu ghi chép các động tác và các khái niệm trừu tượng, trên cơ sỡ chữ tượng hình đã phát triển thành hai loại chữ biểu ý ( Chữ giáp cốt thể hiện ý ) và hài thanh ( mượn âm thanh). Tổng số chữ viết trên văn tự giáp cốt có tới 5000 chữ; có những đoạn văn dài đến hơn 100 chữ. Đến thời Tây Chu số lượng chữ càng nhiều và cách viết càng đơn giản. Chữ viết tiêu biểu thời kì này là kim văn, cũng gọi là chung đỉnh văn ( chữ viết trên chuông đỉnh ). Các chữ viết đầu tiên này được gọi chung là chữ đại triện, cũng gọi là cổ văn. Thời Xuân Thu Chiến Quốc do đất nước không thống nhất nên chữ viết cũng không thống nhất. Đến thời Tần, Lý Tư đã dựa vào chữ nước Tần kết hợp với các thứ chữ của các nước khác, cải tiến cách viết tạo thành một loại chữ thống nhất được gọi là chữ tiểu triện. Từ cuối thời Tần Thủy Hoàng ( 221 – 206 TCN ) đến thời Hán Tuyên đế (73 -49 TCN ), lại xuất hiện một kiểu chữ mới gọi là chữ lệ. Chữ lệ khác chữ triện ở chỗ chữ triện còn giữ lại nhiều yếu tố tượng hình, do đó có nhiều nét cong nét tròn, còn chữ lệ thì biến những nét đó thành ngang bằng sổ thẳng vuông vức ngay ngắn. Thời gian sử dụng chữ lệ tuy không lâu nhưng chữ lệ có ý nghĩa rất quan trọng vì Thư pháp đó là giai đoạn quá độ để phát triển thành chữ chân tức là chữ Hán ngày nay. Nhóm Glory 3
  9. Lịch sử văn minh thế giới Chữ Hán đã nhiều lần cải tiến từ chữ tượng hình thành chữ phù hiệu làm nó thoát li đồ họa thành văn tự, từ nét không đều hoặc cong queo thành nét đều tròn, từ hình chữ không có định thành cố định, từ kết cấu phức tạp thành đơn giản. Không chỉ dừng lại ở đó, do xuất phát từ yêu cầu tìm tòi nghệ thuật mà chữ hán đã trở thành một mĩ thuật biểu cảm dân tộc, thể hiện tâm tư và nguyện vọng của con người, có tác dụng thẩm mỉ và giá trị mĩ học cao.Thư pháp Trung Quốc thật sự thu hút sự chú ý của loài người. Chữ Trung Quốc đã có lúc trở thành “ Quốc gia văn tự” đối với các nước Đông Á và Việt Nam. Ra đời từ thiên nhiên kỉ thứ II tr CN, chữ viết Trung Quốc là hệ chữ duy nhất hiện còn được sử dụng và ngày càng đổi mới để đáp ứng nhu cầu cuộc sống ngày nay. 2.Văn học Văn học là lĩnh vực phát triển từ rất sớm ở Trung Quốc,Trung Quốc có một nền văn học rất phong phú. Từ thời Xuân Thu Chiến Quốc , văn học Trung Quốc đã bắt đầu phát triển. Đến thời Tây Hán tư tưởng Nho gia được đề cao. Đến thời Tùy Đường chế độ khoa cử bắt đầu ra đời, trong đó văn chương trở thành thước đo chủ yếu của tài năng; do đó văn học Trung Quốc càng có nhiều thành tựu lớn lao. Văn học Trung Quốc thời kì này có nhiều thể loại như thơ ,từ, phú, kịch, tiểu thuyết,….trong đó tiêu biểu nhất là kinh thi thơ Đường và tiểu thuyết Minh Thanh. a/ Kinh thi Kinh thi là tập thơ cổ nhất của Trung Quốc do nhiều tác giả sáng tác từ những năm đầu Tây Chu đến giữa Xuân Thu ( khoảng 500). Với 305 bài Kinh thi chia làm ba phần : Phong, Nhã, Tụng. - Phong là dân ca các nước ( gồm 15 nước) nên gọi là Quốc Phong - Nhã là âm nhạc vùng vương triều nhà Chu trực tiếp thống trị gồm đại Nhã( phản ánh sinh hoạt của quý tộc), Tiểu Nhã ( phản ánh sinh hoạt của các tiểu quý tộc. - Tụng là loại thơ ca tán tụng công đức của các ông vua thường dùng trong tế tự ở trong miếu như Thượng Tụng, Chu Tụng ,Lỗ Tụng. Quốc Phong chiếm một nữa số bài trong Kinh thi, cũng là phần có giá trị nhất vì nội dung của nó mang đậm tính nhân văn và tính hiện thực sâu sắc. Kinh Thi chủ yếu tứ ngôn, phần lớn mang hình thức “ trùng chương điệp cú”, ngôn ngữ chất phát, cách điệu mới mẻ, mà hậu thế khái quát thủ pháp biểu hiện trong Kinh thi thành, Phú, Tỷ, Hứng. Kinh thi đã ảnh hưởng rất sâu sắc đến văn học Trung Quốc sau này. b/ Thơ Đường Thơ Đường là đỉnh cao của nền thư ca Trung Quốc. Hàng ngàn năm đã trôi qua nhưng đến nay những bài thơ Dường vẫn làm say mê long người bởi những nội dung và giá trị tuyệt vời của chúng . Trong núi thơ thời Đường ngày ấy, nay người ta còn giữ lại được khoảng 48000 bài thơ của trên 2300 tác giả, tiêu biểu nhất là Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị. 
  10. Lịch sử văn minh thế giới Lý Bạch (701-762) tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, quê Miên Châu (Tứ Xuyên), 12 tuổi đã làm thơ, học rộng, biết nhiều lại giỏi về kiếm thuật. Ông từng được Đường Huyền Tông trọng dụng, làm Hàn lâm cung phụng, nhưng chán cảnh luồn cúi, ưa phóng khoáng nên đã từ quan bỏ đi chu du khắp nơi. Lý Bạch là nhà thơ lãng mạn vĩ đại sau Khuất Nguyên. Thơ ông tập trung miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên, thắm đượm tình yêu đất nước, yêu nhân dân sâu sắc, đồng thời cũng thể hiện tính cao ngạo, coi thường quyền quý, lớn tiếng đã kích các thế lực phong kiến đen tối,….Nhưng bên cạnh những áng thơ kinh điển, ông cũng có những bài thơ “ đắm mình “ trong rượi và thoát tục du tiên. Dặc điểm nghệ thuật : thơ Lý Bạch đẹp, hào hùng, bút thế linh hoạt. Ông đã lại trên 1200 bài thơ, tiêu biểu nhất là bài : hàn lộ nan, xa ngắm thác núi lư, mộng du thiên mu ngâm lưu biệt,…. Đỗ Phủ (712-770) tự Tử Mỹ, hiệu Thiếu Lăng Dã Lão, tổ tiên người Tương Dương ( Hồ Bắc). Ông sinh ra ở huyện Cũng( Hà Nam) trong một gia đình quan lại nhỏ sa sút. Ông đi thi nhiều lần nhưng không đỗ, 40 tuổi mới làm chức quan nhỏ trong 7 năm. Ông sống trong thời đại mà xã hội thời Đường đi từ thịnh đến suy. Thơ Đỗ Phủ phản ánh chân thực các mặt đời sống trước và sau loạn An Sử, chan chứa lòng yêu thương tổ quốc và tình cảm nồng hậu với nhân dân. Đỗ Phủ là nhà thơ hiện thực vĩ đại trong lịch sữ văn học Trung Quốc. Bên cạnh nội dung tư tưởng sâu sắc, là nghệ thuật biểu hiện siêu phàm, ảnh hưởng rất lớn nđến sự phát triển thơ ca sau này. Trong số 1400 bài thơ truyền đời của ông, tiêu biểu nhất là các tác phẩm : Phó Phụng Tiên huyện Vinh Hoài, NGũ bách tự, Bắc chinh, Thạch Hào lại (Viên lại ở Thạch Hào)… Lý Bạch và Đỗ Phủ được ví như hai ngôi sao sáng chói trên thi đàn cổ điển Trung Quốc. Bạch Cư Dị (772-846) tự Lạc Thiên, quê Hạ Khuê (Thiểm Tây), xuất thân trong một gia đình quan lại, đậu tiến sĩ làm quan to trong triều, sau bị giáng chức xuống làm Tư Mã Giang Châu. Ông là người đề xướng dùng thể tân nhạc để viết những đề tài mới về thời sự. Bạch Cư Dị chủ trương thơ ca phải phản ánh nổi thống khổ của nhân dân, đồng thời vạch trần cuộc sống hoang dâm và nền chính tị lừa bịp của giai cấp thống tri…Số lượng thơ ông khá nhiều: 2800 bài, tiêu biểu là các bài Mại tháng ông, Khinh phì , Thượng Dương bạch phát nhân. Đỉnh cao của thơ Bạch Cư Dị là hai bài Trường hận ca và Tùy bà hành. c/ Tiểu thuyết thời Minh,Thanh. Thời Minh, Thanh đả ra đời một loạt những tiểu thuyết tiếng tăm bất hủ. Dựa vào các câu chuyện lưu truyền trong dân gian, các nhà văn đã viết thành tiểu thuyết chương hồi phong phú về nội dung và hình thức. Thời Minh tiêu biểu nhất là bộ Tam quốc chí diễn nghĩa, Thủy Hử và Tây du kí. Bộ ba tiểu thuyết này trở thành di sản quý báu trong nền văn học Trung Quốc và trong kho tàng văn học thế giới. Tam quốc chí diễn nghĩa do La Quán Trung tiếp thu từ truyền thuyết dân gian,rồi căn cứ vào sự thật lịch sử, gia công chỉnh lý mà viết thành sách. Mặc dù có hư cấu nhưng cốt truyện phù hợp với sự thật lịch sử và hợp tình hợp lý, đậm đà tính Nhóm Glory 5
  11. Lịch sử văn minh thế giới nghệ thuật chân thực. Sách kể lại lịch sử từ năm 184 đến 280 sau CN, khắc họa cuộc đấu tranh giữa 3 nước Ngụy, Thục, Ngô, phơi bày xã hội đen tối mục nát và nổi thống khổ của nhân dân thời loạn lạc. Thủy hử là bộ trường thiên tiểu thuyết được Thi Nại Am căn cứ vào sử liêu Bắc Tống cùng với những tình tiết sinh động của các thoại bản và tạp kịch kể về 108 người trong nhóm Tống Gian đầu đời nguyên mà viết thành truyện. Thủy hử kể lại cuộc khởi nghĩa của nông dân ở Lương Sơn Bạc dưới sự lãnh đạo của Tống Gian. Tư tưởng cơ bản trong tác phẩm là tư tưởng “ trung nghĩa” phong kiến… Thành công lớn nhât là tác giả đã sáng tạo ra được nhiều hình tượng anh hùng nông dân tiêu biểu như Tống Gian, Lý Quỳ, Lỗ Trí Thâm… sống mãi trong lòng nhân dân Trung quốc. Thủy Hử Tây du kí do Ngô Thừa Ân sáng tác, miêu tả 81 hồi gian truân mà thầy trò Đường Tăng đã trải qua và chiến thắng. Toàn bộ tác phẩm bậc lên tinh thần lãng mạn, tính châm biếm hài hước và tính chất chống phong kiến. Từ đầu nhà Thanh đến những năm cuối đời vua Càn Long là thời kì tiểu thuyết cực thịnh. Tiêu biểu có các tác phẩm Liêu trai chí dị, Thủy Hử hậu truyện, Tỉnh thế nhân duyên truyện, Nho lâm ngoại sử, Hồng lâu mộng. Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh (1640-1715) là tập đoãn thiên tiểu thuyết có 490 truyện chia làm 4 loại…Tác giả đã mượn chuyện Hồ Ly Ma Quái để chỉ không khí hiện thực hắc ám đương thời, bày tỏ tình nhân thế thái. Tác phẩm này đạt đỉnh cao của đoản thiên tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc Nho lâm ngoại sử của Ngô Kính Tử (1705-1754) là bộ tiểu thuyết châm biếm nhằm đã kích nền luân lý phong kiến thời cổ và chế độ khoa cử thời đó Hồng lâu mộng do Tào Tuyết Cần và Cao Ngạc sáng tác đã miêu tả cảnh hưng suy của một gia đình phong kiến và chuyên tình của đôi nam nữ Giả Bảo Ngọc- Lâm Đại Ngọc. Tác phẩm khắc họa rõ nết bộ mặt phong kiến Trung Quốc mạc kì, phê phán chế độ thi cử, quan trường và lễ giáo phong kiến, nêu khác vọng tự do…Nó có tác dụng chống lại ý thức hệ phong kiến. Hồng lâu mộng là tiểu thuyết có giá trị, xứng đáng là một kiệt tác của nhân loại. 3/ Sử học Một trong những đặt điểm của văn hóa cổ đại Trung Quốc là sử học rất phát triển. Đây là một lĩnh vực đạt nhiều thành tựu to lớn. Dân tộc Trung Quốc có ý thức cao về lịch sử và rất giàu kinh nghiệm trong biên soạn lịch sử. Chế độ sử quan chưa hề gián đoạn, ghi chép lịch sử liên tục, phong phú về hình thức, đa dạng về thể loại. Từ thời Tây Hán, sử học mới trở thành một lĩnh vực độc lập và ngày càng phát triển. Nhóm Glory 6
  12. Lịch sử văn minh thế giới Người đặt nền móng cho sử học Trung Quốc là Tư Mã Thiên. Sau đây xin điểm qua một số tác phẩm tiêu biểu nhất. Sử ký của Mã Tư Thiên là bộ thông sử theo kiểu bất khoa toàn thư trải suốt 3000 năm lịch sử từ thời Hoàng Đế đến Hán Vũ Đế, gồm 5265000 nghìn chữ chia làm 13 chương với 5 thể loại phối hợp và bổ sung cho nhau ( 12 bản kỉ, 10 biểu, 8 thư, 30 thế gia, 70 liệt truyện). Sử ký đề cập đến các mặt chính trị, kinh tế, quân sự, chế độ điển chương, học thuật, văn hóa, y dược, bói toán, hoạt động của mọi nhân vật thuộc mọi tầng lớp xã hội, thiên văn, địa lí, công trình đê điều, quan hệ giữa các dân tộc, quan hệ giao lưu với các nước ngoài…, đồng thời phê phán thuyết thiên phân hợp nhất, âm dương ngũ hành, đề xướng nhân nghĩa, chống bạo lực, ghét chiến tranh, coi trọng hoạt động sản xuất…, Tư Mã Thiên là người đầu tiên trong các sử gia trên thế giới ghi chép lịch sử bằng thể ký. Sử ký đã để lại cho đời sau những tư liệu lịch sử hết sức có giá trị, đồng thời cũng là một kiệt tác văn học được Lỗ Tấn ca ngợi là: “ lời hát tuyệt vời của các sử gia, thiên Li Tao không vần”. Sử ký của Tư Mã Thiên được xếp vào hàng những tác phẩm đồ sộ của nhân loại. Kế thừa thể lệ của sử thi, Ban Cố thời Đông Hán ( 32-92 s. CN) đã biên soạn sách Hán thư, mở đầu cho cách viết sử chia theo thời đại. Hán thư gồm 12 bản kỉ, 8 biểu, 10 chí, 70 liệt truyện ghi chép những sự kiện xảy ra từ những năm đầu Hán Cao Tổ( 260 TCN) đến năm thứ tư – Vương Mãng (năm 23 s. CN) theo thể loại truyện ký. 10 chí của Hán thư so với 8 thư của sử ký thì hoàn hảo và sáng tạo hơn…, nhưng do nhãn quan chính trị của Ban Cố nên Hán thư trỏ thành một tác phẩm sử học chính thống ủng hộ nền thống trị phong kiến, phê phán tư tưởng chống đối của Tư Mã Thiên. Từ đời Hán đến Nam Bắc Triều,ngoài Hán thư còn có Tam quốc chí của Trần Thọ, hậu Hán thư của Phạm Diệp. Sau đó, Tùy Văn Đế,Đường Thái Tông,lập cơ quan biên soạn lịch sử của nhà nước gọi là “ Sử quán” do tể tướng và đại thần phụ trách .Các chức sử quan được lập chuyên lo việc soạn thảo lịch sử. Từ đó, nhiều bộ sử như: Tấn thư, Lương thư,Trần thư, Bắc Tề thư, Chu thư, Tùy thư, Nam sử, Bắc sử… ra đời. Sau này, còn quy định về quyền soạn chính sử, theo đó chỉ nhà vua mới có quyền cử người soạn chính sử, tể tướng giám định, tư nhân không được viết sử như trước nữa. Trong 15 bộ chính sử được biên soạn có Tùy thư, Tân Đường thư, Kim sử được đánh giá cao… Nhưng bộ sử có ảnh hưởng đời sau nhất là bộ Tư trị thông giám của Tư mã Quang. Nhóm Glory 7
  13. Lịch sử văn minh thế giới Tư Mã Quang ( 1019-1086) đã để ra 19 năm trời để soạn bộ thông sử theo thể biên niên, khác với cách biên niên sử từng thời trước đó. Thực ra đây là một công trình tập thể của Tư Mã Quang, Lưu Thư, Lưu Du và Phạm Tổ Ngu. Các tác giả đã tham khảo nhiều loại tài liệu và ý kiến của 310 nhà viết tạp sử… Tư mã Quang là người viết bản thảo cuối cùng. Bộ sách ghi từ thời chiến quốc ( 403 TCN) đến Ngũ đại(959), tổng cộng là 354 cuốn ( kể cả 30 cuốn mục lục). Thông giám ghi sự kiện lịch sử theo thứ tự thời gian với thư pháp truy thuật(thuật lại) và chung ngôn (lời sau) để nói rõ nguyên nhân hậu quả của các sự kiện. Cách ghi này dễ gây ấn tượng và có hệ thống rõ ràng. Đặc biệt Thông giám có thái độ phê phán mê tín, tôn giáo…đây là tiến bộ quan trọng của tư tưởng sử học Trung Quốc. Tư trị thông giám có ảnh hưởng lớn, thúc đẩy việc viết sử theo kiểu biên niên. Sau này, xuất hiện nhiều tác phẩm cùng loại như Tư trị thông giám Cương mục của Chu Hy ( Nam Tống). Hồ Tam Tĩnh ( giữa Tống – Nguyên) chú giải Thông giám, còn Vương Phu Chi ( giữa Minh – Thanh) bàn về Thông giám…Đã dẫn đến hình thành cả một hệ thống “ Thông giám học” . Thời Minh – Thanh các bộ sử lớn được biên soạn như Minh sử, Thanh thực lục, Đại Thanh nhất thống trí, Tứ khố toàn thư…các bộ sách trên đều là nhưng di sản văn hóa vô giá của nhân dân Trung Quốc 4.Nghệ thuật Nghệ thuật Trung Quốc có một lịch sử lâu đời với phong cách dân tộc đậm đà và đạt được những thành tựu huy hoàng. a/ Kiến trúc Trung Quốc còn là một nước có nền kiến trúc phát triển rực rỡ với nhiều công trình kiến trúc độc đáo có tầm cỡ quốc tế.Có thể chia lịch sử Trung Quốc thành các giai đoạn như: Giai đoạn 1 (từ 475 TCN- 221 TCN ) là cao trào kiến trúc lần thứ nhất; công trình tiêu biểu là thành Trường An và Vạn Lý Tường Thành; THÀNH TRƯỜNG AN Giai đoạn 2 ( từ năm 221 TCN đến năm 907) trong đó thời Tuỳ là đỉnh cao mới của nên kiến trúc Trung Quốc. Ở giai đoạn này, các quy luật kiến trúc đã hình
  14. Lịch sử văn minh thế giới thành và ổn định, công trình tiêu biểu là chùa Phật Quang ở Ngũ Đài Sơn, Tháp chùa Giang Thiên trên ngọn Kim Sơn, các thành phố như Lạc Dương, Thành Đô…; Thành Lạc Dương cổ Thành Đô Trung Quốc Giai đoạn 3 (từ năm 907 đến 1368), đặc trưng của giai đoạn này là hình thứ khéo léo tinh vi, nhà cửa, chùa chiên, vườn tược đều được chú ý trang trí cẩn thận, xây dựng công phu, công trình tiêu biểu là điện Mâu Ni ( Hà Bắc), các tháp Xá Lợi, Tây Hạ ( Nam Kinh ), tháp chùa Thiên Minh ( Bắc Kinh ), tháp Giang Thiên (Giang Tô ); giai đoạn 4 ( từ 1368 đến 1849 ) là giai đoạn kiến trúc Đương - Tống được nâng lên một mức cao hơn, công trình tiêu biểu là quần thể kiến trúc nổi tiếng Cố Cung, CỐ CUNG Viên Minh viên. Kiến trúc cổ đại Trung Quốc có đặc điểm là thường dùng vật liệu kết cấu bằng gỗ, bố trí thành quần thể kiến trúc, ở giữa là sân, bốn phía là nhà vây lại, lấy gian nhà làm đơn vị cơ bản. Cung điện, đền chùa, miếu mạo đều xây dựng theo một dạng như vậy, chỉ khác về quy mô, kiểu dáng mà thôi. Gia công nghệ thuật ngay trên cấu kiện của kiến trúc như tạo dáng hình cong với những phù điêu các con vật quý, tạo cho bộ mặt kiến trúc Trung quốc một vẻ độc đáo. Sự bố trí các màu tong một bố cục tương phản tôn tạo lẫn nhau, sự phản ánh đời sống tam linh của người Trung Quốc như: lòng tin vào thánh thần, tôn thờ trời đất, thuyết Âm dương ngũ hành… đã ảnh hưởng đến hình thức và nội dung các công trình kiến trúc cổ xưa, tạo nên đặc điểm trong kiến trúc Trung Quốc. Những công trình kiến trúc nổi tiếng : Nhóm Glory 9
  15. Lịch sử văn minh thế giới - Vạn Lý trường thành là công tình Vạn Lý Trường Thành phòng ngự nổi tiến của Trung Quốc chống lại sự xâm lăng của các dân tộc phương Bắc trong suốt 2500 năm. Trường thành dài 6700 km, chạy qua địa phân 6 tỉnh miền Tây, Tây Bắc và Đông Bắc Trung Quốc, được xây tư năm 420 đến năm 221 TCN. Sau khi thống nhất Trung Quốc, Tần Thuỷ Hoàng đã huy động 30 vạn người nối Trường thành của các nước Yên, Triệu, Tần và sửa sang lại. Các triều đại kế tiếp, triieù nào cũng cho sửa sang lại. Đặc biệt là triều minh đã cho tiến hành tu bổ, gia cố Trường thành trong 100 năm liên tục. Nguyên liệu chủ yếu đẻ xây là gạch vồ, đá tảng. Trường thành gồm 4 bộ phận chủ yếu: tường thành, cửa ải, đài thành, phong hoả đài… lại được xây trên địa hình sống núi, có nơi cao tới 1000 mét. Công trình là kết quả của sức lao động của hành triệu người dân Trung Quốc thuộc nhiều thế hệ. Ngày nay, Trường thành là nơi tham quan du lịch nổi tiến của Trung Quốc. - Trường An là thành thị cổ nổi tiếng của Trung Quốc, là nơi đong đô của các triều đại từ Hán đến Tuỳ, Đường kéo dài hơn 1000 năm. Tuỳ Văn Đế xây thêm một toà thành mới là Đại Hưng thành rộng khoảng 84 km, gồm 3 bộ phận: Quách Thành, Hoàng Thành và Cung Thành…Đời Đưòng thành được mở rộng thêm, đặc biệt khu Thái Minh cung là một quần thể kiến trúc gồm 30 toà lâu đài, điện đường lớn nhỏ và nhiều vườn hoa tuyệt mĩ. Thời đó Trường An tiếp 43 nước khác đến buôn bán, nhiều du học sinh các nước khác đến đây học tập ngôn ngữ, văn chương, chính trị, giáo lý nhà Phật. Trường An còn là nguồn cảm hứng cho nhiều nhà thơ nổi tiếng như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị… - Tử Cấm Thành là một quần thể kiến trúc có quy mô lớn nhất, có giá trị nghệ thuật cao, được bảo tồn tốt nhất ở Bắc Kinh. Đây là cung điện của 24 dời vua thuộc các triều đại Minh -Thanh ( từ năm 1421 đến 1911 ). Tử Cấm Thành xây dựnh trên khu đát chữ nhật rộng 7200000m, xung quanh có tường cao 10m bao bọc, có hào rộng 52m, ven tường 4 góc có 4 tháp canh, 4 mặt có các cửa: Ngọ Môn. Thần Vũ, Tử Cấm Thành Đông Hoa, Tây Hoa. Thành được xây từ thời Minh- Vĩnh Lạc thứ 4 (1406), gồm hơn 1000 ngôi nhà và cung điện. Điện Thái Hoà là điện lớn nhất, diên tích 3270 m, cao 36m, có 12.654 con rồng uốn lươn theo các tư thế…Cách xây dựng Tử Cấm Thành tỏ rõ sự sáng tạo tài hoa của nhân dân Trung Quốc. Nhóm Glory 10
  16. Lịch sử văn minh thế giới b/Điêu khắc Nghệ thuật điêu khắc của Trung Quốc đã có từ lâu đời và chiếm địa vị khá đặc biệt trong nền nghệ thuật nước này. Cách đây 6000 năm, người Trung quốc dã biíet dùng ngọc để chế thành đố trang sức để đeo trước cổ. đây là kĩ thuật ngọc điêu sớm nhất ở trung Quốc cung như trên thế giới Thuật điêu khắc đá ( thạch điêu )cũng có từ cuối thời Thương. đến thời Tần, Hán, Đường, thạch điêu khắc đạt được trình độ kĩ thuật cao, tiêu biểu là cặp tượng “Tần Ngẫu” đời Tần, tượng danh tướng Hoắc Khứ Bệnh chống Hung nô “ Mã đạp Hung nô” thời tây Hán, và đặc biệt, các tượng phât bằng đá, trong dó nổi tiếng là pho tượng “ Lạc sơn đại phật” cao 71m, tương truyền do hoà thượng Hải Thông khai tạc. Bằng nghệ Tượng Lạc Sơn Đại Phật thuật siêu phàm, nghệ nhân đã tạc pho tượng uy nghi, hài hoà, hoàn mĩ, là pho tượng lớn bậc nhất hành tinh hiện nay. Tượng phật “ Nghìn mắt nghìn tay” và 500 vị La hán của Dương Huệ Chi (713-725) cũng là kiệt tác điêu khắc làm cho mọi người phải kinh ngạc. Thời Tống có “ Vạn tự bi” dựng lại Linh Nhan Sơn ( Tô Châu ) để kỉ niệm anh hùng dân tộc Hàn Thế Chung chống Kim, bia rộng 2,97m, có 39 vạn chữ. Mới thấy, nghệ thuật thạch điêu Trung Quốc quả là kì công…Ngoài ra, người trung Quốc còn điêu khắc trên ngà, trên gỗ ( mộc điêu ) cả trên gạch với những kĩ thuật điêu luyện với những đôi bàn tay vàng thực hiện. c/ Hội hoạ Ngay từ thời đồ đá mới, người Sơn Đỉnh động dã dùng khoáng thạch màu hồng đỏ ( chu sa ) sơn lên các công cụ bằng đá, bằng xương cho đẹp. Trên đồ gốm họ cũng vẽ những bức tranh trông rất đệp mắt Thời Chiến Quốc, người ta cũng biết dùng những đường nét để tạo hình, tự xác định phong cách hội hoạ riêng. Hai bức tranh vẽ trên ngôi mộ cổ ở nước Sở: “ phượng quỳ mĩ nữ” và “ nhân vật ngự long”, vẽ bằng màu đen sáng tạo những hình thể sống động, giàu tính chất trang trí, là những bức hoạ độc lập xưa nhất mà ngày nay được thấy. Điều đó chứng tỏ rằng cách đây trên 2000 năm, hội hoạ Trung Quốc dã đạt đến trình đọ cao. Thời Hán, người ta vẽ trên lụa, trên tường, trên đất nung và tượng đá, tiêu biểu là bức tranh lụa thời Tây Hán vẽ ngôi mộ của người chủ cùng các hình thức sinh hoạt, các truyền thuyết thần quái… với đướng nét khoẻ khoắn, màu sắc tươi sáng. Bích hoạ ( tranh vẽ trên tường ) cũng nhiều. Những nha thự, cung điện lớn đều có bích hoạ. Thời Nguỵ, Tấn, Nam Bắc Triều, hội hoạ chịu ảnh hưởng nghệ thuật Phật giáo. Các hoạ gia tài hoa, nổi tiếng về vẽ tranh phật như Vệ Hiệp, Trương Mặc thoát khỏi hoạ pháp cổ kính chất phát đời Hán, tìm tòi kĩ xão tả thực, tinh vi sinh động. Cố khải Chi (346- 407) có những bức tranh như “ Nữ sử châm đồ”, ca ngợi người phụ nữ tuân thủ quy phạm đạo đức phong kiến, “ Lạc thần phú đồ”…mà đến nay vẫn được coi là mẫu mực về hoạ pháp. Hội hoạ phát triển, những tác phẩm lý luận về hội hoạ cũng nối tiếp nhau ra đời. “ Lục pháp luận” của Tạ Hách nêu 6 Nhóm Glory 11
  17. Lịch sử văn minh thế giới yêu cầu : thần vận, sinh động, cứng cáp, vẽ giống, tô màu đúng chỗ, bố cục đẹp; trong đó thần vận, sinh đông, tức là biểu hiên ttrạng thái nhân vật là quan trọng nhất. tác phẩm này là tổng kết kinh nghiệm sáng tác từ thời Hán về sau. Thời Tuỳ, Đường hội hoạ vượt hẳn các triều đại trước, đạt dỉnh cao của nền hội hoạ Trung Quốc, đông thời ảnh hưởng đến nền hội hoạ các nước phương đông. Thời đường các hoạ gia vẽ người là chủ yếu. Ngô Đạo Tử, Diêm Lập Bản, Trương Tyuên, Chu Phòng là các bậc thầy về môn này. Ngô đạo Tử vẽ hơn 300 bức tranh ở vùng Trường An, Lạc Dương. Ông vẽ mỗi người mỗi vẻ, đường nét biến hoá, màu sắc phong phú. Ông được khen là “ Bách hoạ đại gia”( Thánh hoạ trăm đời ). Tranh sơn thuỷ kế thừa thời Nguỵ- Tấn nay thành một môn độc lập. Triển Tử Kiền ( thời Tuỳ ) vẽ “ Du xuân đồ” là bức tranh hoa điểu sớm nhất, đạt đỉnh cao trong thể loại này. Biên Loạn và Điêu Quang dân là hoạ gia vẽ tranh hoa điểu nổi tiếng. Vương Duy được người sau tôn thờ là thuỷ tổ của thi, thư, hoạ, vì tranh của ông “ thi trung hữu hoạ, hoạ trung hữu thi”( trong thơ có hoạ, trong hoạ có thơ) Bích hoạ đời Đường hết sức thịnh vượng. Các động Mạc Cao, Đôn Hoàng còn giữ được lại nhiều báu vật này. Thời Minh- Thanh đề tài phần lớn là thiên nhiên. Tranh sơn thuỷ, mai, lan, trúc thạch, hoa lá cỏ cây được thể hiện nhiều. Tác phẩm Khổ Qua hoà thượng hoạ ngũ lục của Thạch Thọ là cuốn sách nói về lịch sử hội hoạ có ảnh hưỏng đến nền hội hoạ hoạ thời sau. 5. Khoa học tự nhiên a/ Toán học Trung Quốc là nước biết sử dụng phép tính thập phân sớm nhất trên thế giới. sách Thượng Thư ghi chép nhiều loại con số như “ức triệu”, “triệu dân”, sách kinh thi cũng ghi “thiên ức”… Đến thời Chu, giáo dục số học trong nhà trường cũng được coi trọng. Trong “ Lục nghệ” theo quan niêm đương thời : “một là ngũ lễ, hai là lục nhạc, ba là ngũ nhạc, bốn là ngũ ngự, năm là lục thư, sáu là cưu số”, có một nghề liên quan đến toán ( cửu số là số học). Tây Hán có sách Chu bí toán kinh, nghiên cứu định lý tam giác vuông, “tam giác, tứ giác, ngũ giác”, phân số phức tạp, phếp tính bình phương… Thời Đông Hán, Trương Thương và Cảnh Thọ Xương chỉnh lý lại Cửu chương toán thuật. Trong sách có 246 đề ứng dụng cùng lời giải. Đến đây toán học Trung Quốc dã đạt trình độ nhất định và thành hệ thống. Thời Nam Bắc Triều, Tổ Xung Chi (429- 500) tìm ra số π chính xác đến con số thập phân thứ 10 (π = 3,1415926203). đến thế kỉ thứ XVI, tức là 1000 năm sau, các nhà toán học Đức và Hà Lan mới tìm ra được kết quả trên. b/ Thiên văn học và lịch pháp Là đất nước lấy nghề nông làm cơ sở kinh tế, người Trung Quốc sớm quan tâm đến việc làm lịch pháp, xác định thời tiết. Vì thế thiên văn học đã ra đời từ rất sớm. Theo truyền thuyết, từ thời xa xưa, Đường Nghiêm đã sai hai ông Huy và Hoà (hai vị qua coi việc làm lịch) xem luật trời, xem xét nhật thực, nguyệt thực, tinh tú, báo cho dân biết mà cáy cấy. Thời Thương, các hiện tượng nhật thực, nguyệ thưc, sao chổi…cũng được ghi chép và bảo quản cẩn thận. Nhà khảo cổ Đổng Trọng Thư Nhóm Glory 12
  18. Lịch sử văn minh thế giới phát hiên một Giáp cốt văn, ghi ngày vọng nhật ( ngày rằm) tháng 2 năm Võ Đinh thứ 29 có nguyệt tự, đổi ra công nguyên là ngày 23.11.1311 TCN. Theo tính toán của các nhà khoa học hiện nay thì giờ đó, thì giời đó, ngáy đó có hiệ tượng nguyệt thực toàn phần. Như vậy cách đây 3000 năm người Trung Quốc đã ghi chép đúng về hiện tượng nguyệt thực. Đây là tài liệu sớm nhất thế giới về phương diện này. Thời Chiến Quốc ra đời nhiều tác phẩm nổi tiếng ghi chép về sự vận hành của tinh tú như bộ Cam Thạch tinh kinh. Đây là quyển sách ghi chép về các hành tinh sớm nhất thế giới, ghi được chừng 800 vì tinh tú, trong đó xác định vị trí 120 vì tinh tú. Phải đến thế kỉ II TCN người Hi Lạp mới soạn được tinh biểu. Thế kỉ VII TCN, người Trung Quốc đã biết dùng cọc đứng để đo bóng Mặt Trời gọi là thổ khuê, từ đó họ xác định được ngày hạ chí, đông chí để tính lịch ngày càng chính xác hơn. Kế thừa những thành tựu của người đi trươc, Trương Hành (78 - 139) thời Đông Hán đã nghiên cứu và biết rằng ánh sáng Mặt Trăng là do nhận của Mặt Trời. Ông còn chế tạo ra mô hình thiên thể là Hồn thiên nghi và làm ra dụng cụ đo động đất gọi là Địa động nghi có thể xác định nơi xỷ ra động đất cho dù ở rất xa Ngay từ thời Ngũ Đế, người Trung Quốc đã biết làm lịch để phục vụ sản xuất và đời sống. Qua nhiều lần điều chỉnh và sửa đổi, đến đời Hạ, lịch Mặt Trăng đã tương đối hoàn chỉnh : năm bình thường 12 tháng, thánh đủ 30 ngày ( thiếu 29 ngày); ăm nhuận 13 tháng, cứ 3 năm có một tháng nhuận, sau 5 năm lại có nhuận 2 lần. Vì lịch này dựa vào sự vận hành của Mặt Trăng nên gọi là âm lịch, còn có tên là hạ lịch vì dược dùng tư thời nhà Hạ. Đến nay Trung Quốc và Việt Nam vẫn còn dùng lịch này song song với dương lịch. Thời Xuân Thu chia lịch ra làm 4 phần, một năm có 8 tiết là đông chí, hạ chí, xuân phân , thu phân, lập xuân, lập hạ, lập thu, lập đông, còn quy định trong 19 năm có 7 tháng nhuận. Thời Tây Hán, Tư Mã Thiên cùng Xạ Tính và Đặng Bình soạn ra Lịch Thái Sơ rất nổi tiếng. Lịch Thái sơ chỉ ra chu kì nhật thực là 135 tháng, chia 1 năm ra 24 tiết, cách chia này có ý nghĩa quan trọng đối với sản xuất nông nghiệp Thời Nguyên, Quách Thủ Kính soạn ra Thụ thời lịch vào năm 1320. Đây là bộ lịch chính xác nhất của Trung Quốc lúc đó. Một năm chia ra 365,2425 ngày; so với công lịch công bố năm 1582 thì công lịch ra đời chậm hơn Thụ Thời lịch 300 năm. c/ Y dược học Đông y của Trung Quốc ra đời và phát triển trong quá trình thực tiễn và đạt được nhiều thành tựu đáng khâm phục. Lí luận về Đông y từ thời Chiến Quốc đã hình thành về cơ bản và được đúc kết trong cuổn Hoàng đế Nội kinh. Pho sách này được các nhà Đông y từ xưa đến nay coi là sách kinh điển bậc nhất về y học cổ truyền Trung Quốc, đứng đầu trong 4 bộ sách kinh điển (Nội, Vạn , Thương , Kinh). Nó giới thiệu đầy đủ các hoạc thuyết sinh lý và học thuyết bệnh lý, chỉ rõ chức năng tác dụng của các bộ phận trong cơ thể người, đồng thời chỉ rõ nguyên tắc trị bệnh: “ tìm mồng móng phát sinh” để trị bệnh từ gốc…Danh y Việt Nam Hải Thượng Lãn Ông, khi bàn về ý nghĩa của Nội kinh, đã ví nó như Ngũ Kinh đối với nhà Nho. Nhóm Glory 13
  19. Lịch sử văn minh thế giới Đến thời Hán, Trương Trọng Cảnh (150 – 219) dựa vào phép Biện chứng luận trị soạn ra bộ Thương hàn tạp bệnh luận. Ông không chỉ nhấn mạnh đến nguyên tắc trị bệnh mà còn cụ thể hóa nhiều khái niệm trong Nội kinh, gợi ý, mở đường cho cách chữa trị biến chứng theo kiểu Đông y. Cho đến nay, sách này vẫn là trước tác cơ bản của lý luận Đông y và trị liệu lâm sàng khi nghiên cứu học tập Đông y. Trong khoa học lâm sàng, y học Trung Quốc có cống hiến to lớn, tiêu biểu là khoa châm cứu ( có từ thời đồ đá mới). Trong Hoàng đế Nội kinh, 9 cuốn Linh khu đã ghi chép tỉ mỉ các huyệt đạo, cách châm và những nơi cấm châm. Thời Hán có các lương y châm cứu giỏi như Thuần Vu Y, Trương Trọng Cảnh, Hoa Đà. Châm cứu không chỉ được người Trung Quốc tin dung mà còn được phổ biến rộng rãi ở các nước láng giềng. Các khoa như Phụ khoa, Nhi khoa cũng có nhiều thành công. Đặc biệt là trong lĩnh vực Ngoại Khoa, từ thế kỷ thứ II, Hoa Đà đã dùng rượu gây mê để phẫu thuật đạt kết quả ngoài sức tưởng tượng của người thời ấy. Thời Đường, Lan Đạo Nhân viết sách Tiên thụ lí thương, Kế tục mật thương, ghi lại từng bước cách trị gãy xương. Cuốn sách đặt cơ sở khoa học cho chữa trị thương tật của Đông y ngày nay. Về thuốc, thời Tiên Tần có Sơn hải kinh đề cập đến hơn trăm loại dược liệu. Đời Hán ra cuốn Thần nông bản thảo kinh, ghi được 365 loại dược liệu, đồng thời giới thiệu rõ tính chất, công dụng và nơi có loại dược liệu đó. Đến Nam Triều, sách Bào cứu luận, nói về cách chế biến dược liệu, được bên soạn. Thời Đường, người ta biết được 844 loại dược liệu nhờ đọc cuốn Tân tu bổn thảo. Đây là cuốn từ điển dược liệu sớm nhất Trung Quốc và thế giới do Nhà nước tổ chức soạn thảo. Đến năm 1082, một người nhà Tống là Đường Thuận Vi đã soạn ra cuốn Kinh sử chứng loại bị cấp bổn thảo, giới thiệu 1700 loại dược liệu. Nổi bật hơn là Bổn thảo cương mục của Lý Thời Trân ( thời Minh), gồm 52 cuốn, ghi 1892 loại dược liệu, 1162 bức tranh, cách chế 11096 loại thuốc. cuốn sách đã phê phán và kế thừa tinh túy của các học thuyết về thuốc của các thời Tống, Nguyên dồng thời giới thiệu những dược liệu mới như Tam thất, Man đà la, Đại phong tử. Cuốn sách nổi tiếng này được dịch ra tiếng Latin và các thứ tiếng khác năm 1659. Darwin coi Bổn thảo cương mục như một bộ sách Bách khoa toàn thư của Trung quốc cổ đại. 6. Địa lý học Tìm hiểu và viết sách địa lý cũng thu gút sự quan tâm của người trung Quốc từ xa xưa. Trong lĩnh vực này họ đạt được những thành công đáng ghi nhận. Về địa lí tự nhiên tiêu biểu nhất là Sơn Hải kinh viết cuối thời Xuân Thu, gồm 13 cuốn, chia 2 phần. Sách này lấy núi sông làm đối tượng nghiên cứu chính, phản ánh quan niệm xưa của người Trung Quốc. Cuốn Vũ Cống được biên soạn thành sách vào thời Chiến Quốc, Tập thượng có giá trị cao, là tư liệu nghiên cứu lịch sử dịa li thời Tiên Tần, thu hút sự chú ý của nhiếu học giả. Địa đồ học là ngành quan trọng và có từ lâu đời. Thời Chu đã có bản đồ nhưng không bảo tồn được. Năm 1986, người ta phát hiện ở mộ Tần Thuỷ Hoàng, chôn năm 238 TCN, 7 tấm bản đồ được khắc trên gỗ; niên đại này sớm hơn niên đại tấm bản đồ có sớm nhất thế giới từ thời đế quốc La Mã hơn 300 năm. Bùi Tú (224-271), người Nhóm Glory 14
  20. Lịch sử văn minh thế giới nước Tấn được xem là người đầu tiên trong kịch sử Trung Quốc đã giới thiệu phương pháp vẽ bản đồ, đặt nền móng cho khoa học bản đồ Trung Quốc. Thời Đường có Giả Đam (730-805), thời tống có Thẩm Quát, các ông đã để lại những tác phẩm quý giá trong lịch sử bản đồ cổ đại. 7/ Nông học: Nghề trồng trọt ở Trung Quốc có lịch sử rất lâu đời. Tại di chỉ khảo cổ Bản Kha (Tây An) người ta đã phát hiện nhiều chum vại cất giữ ngũ cốc. Điều đó chứng tỏ rằng từ 7000 năm trước, nghề trồng ngũ cốc đã phát triển tại lưu vực Hoàng Hà. Tại 1973, tại Hà Mẫu Độ (tỉnh Triết Giang), người ta tìm thấy những hạt lúa thành than có niên đại cách đây 6700 năm mới biết thời ấy ở lưu vực Trường Giang đã trồng lúa nước. Ngoài lúa nước còn có các loại khác như ngô, mạch, kê…Trên Giáp cốt văn cũng thấy có ghi tên các loại ngũ cốc, các chữ nông, điền xác nhận lại những nhận xét trên. Ngoài ra, từ lâu người dân đã trồng dâu nuôi tằm, trồng trà dùng làm thức uống. Đời Đức Tông(thời Đường) đã từng được phong là Thần trà và cuốn Trà kinh của Lục Giả là cuốn sách trên thế giới viết về trà. Tuy đồ sắt ra đời muộn nhưng lại được phát huy nhanh chống tại nước này. Từ thời Tây Hán, nông dân đã dùng cày sắt, sớm hơn châu Âu 1200 năm. Theo tài kiệu Giáp cốt thì đời Ân, hàng năm, mỗi lần làm lễ vua dùng hàng trăm hàng ngàn gia súc, đủ thấy nghề chăn nuôi thời ấy khá phát triển mới đáp ứng đủ nhu cầu trong nước. Đến thời Xuân Thu, trâu bò đã được dùng để cày ruộng, nên loài vật này càng được coi trọng …Nghề nuôi heo cũng phổ biến và đặt trình độ nhất định. Trong khi tìm hiểu cách thiến heo, vỗ béo hay cách nuôi để có thịt ngon, Darwin đã ghi nhận: “ heo của Trung Quốc có giá trị trong việc cải tạo giống heo ở châu Âu”. Các nước Trung Á, Tây Á và châu Âu đều học hỏi phương pháp chăn nuôi của Trung Quốc. Sở dĩ nông nghiệp đặt được những thành tựu lớn như vậy vì từ rất sớm người Trung Quốc đã biết áp dụng các phương pháp bón phân bảo vệ đất, chú trọng yếu tố thời vụ, thổ nghi và giống… Song song với sự phát triển nông nghiệp, ngành nông học ra đời với nhiều nhà nông học cùng các tác phẩm nổi tiếng. Giả Hiệp( người Bắc Ngụy ) có tác phẩm Tề dân yếu thuật gồm 10 quyển, 92 thiên, là sách chuyên khảo về trồng trọt và chăn nuôi sớm nhất thế giới hiện còn được giữ. Vương Chính ( thời Nguyên) soạn bộ Nông thư gồm 35 quyển, 13000 chữ, 300 trang với 306 bức tranh giới thiệu 257 loại công cụ. Đến thời Minh, Từ Quang Khải – nhà toán học thiên văn và là nhà nông học hàng đầu – đã viết Nông chính toàn thư gồm 60 cuốn, phân ra làm 12 mục, trên 50 vạn chữ, bàn về nông bản, chế độ ruộng đất, việc nhà nông, thủy lợi…và những kiến giải về việc nghiên cứu thuộc tính động thực vật, kỹ thuật trồng ghép cây ăn quả, thuần hóa động thực vật…Nông chính toàn thư là tác phẩm đạt đỉnh cao nhất của nền nông học cổ đại Trung Quốc. 8/ Bốn phát minh quan trọng Trung Quốc là quê hương của nhiều phát minh kỹ thuật. Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XI TCN, kỹ thuật luyện đồng đã được phổ biến và ngày càng phát triển. Từ Nhóm Glory 15
  21. Lịch sử văn minh thế giới thế kỷ XI TCN, người Trung Quốc không chỉ nắm được kĩ thuật luyện sắt mà còn tìm ra gang, luyện thép thành công, do đó đã thúc đẩy nhiều ngành nghề khác phát triển theo…Nhưng tiêu biểu nhất là 4 phát minh thời Trung đại: thuốc nổ, kim chỉ nam, giấy và nghề in. - Thuốc nổ: Thuốc nổ được người Trung Quốc gọi là “ Hỏa dược” (thuốc lửa). Đó là hợp chất gồm lưu huỳnh, diêm tiêu và than trộn lẫn với nhau rồi đốt. Do ngẫu nhiên mà các nhà luyện đan thời cổ đại phát hiện ra tính chất dễ cháy nổ của hợp chất và đã ghi lại để người đời sau chú ý đề phòng. Đầu thế kỷ X, “ Hỏa dược” được dùng làm vũ khí, đến thời Tống thì được ứng dụng rộng rãi vào việc chế tạo các loại vũ khí thô sơ như tên lửa, cầu lửa, đạn bay…làm cho hệ thống vũ khí và cả khoa học quân sự biến đổi hẳn. Từ thế kỷ XIII về sau, thuốc súng được truyền sang phương Tây qua con đường chinh phục Châu Âu của người Mông Cổ. Người Ả Rập học kỹ thuật chế thuốc súng đầu tiên; các nguyên liệu được họ gọi là “ tuyết Trung Quốc”. Ở châu Âu, phát huy các tác dụng to lớn. Về ý nghĩa của phát minh này, F. Engels viết: “ vũ khí ra đời, đó là loại vũ khí mà chính thể quân chủ mới trỗi dậy của thành thị và dựa vào thành thị để chống lại quý tộc phong kiến. Bức tường đá của lô cốt quý tộc từ trước đến nay không công phá nổi giờ đây chống không nổi đại pháo của thị dân, súng đạn của thị dân đã bắn xuyên thủng áo giáp của kị sĩ, sự thống trị của giai cấp quý tộc mà chỗ dựa của chúng là đội kị binh quý tộc khoác áo giáp đều đến giờ tận số”. - Kim chỉ nam: Truyền thuyết kể rằng ngày xưa, thời Hoàng Đế đã biết dùng xe nam châm để phân biệt phương hướng khi trời mù sương không rõ đường. Từ thế kỷ III TCN, người ta đã biết được tính chất hút sắt của đá nam châm và thế kỷ I TCN thì biết được tính chất chỉ hướng của nó. “ Tư nam” là dụng cụ có tính chất chỉ nam cổ nhất, được xem là tổ tiên của kim chỉ nam. Đến thời Bắc Tống, người ta đã phát minh ra được sắt nam châm nhân tạo bằng cách mài sắt vào đá nam châm cho sắt từ hóa rồi chế tạo ra la bàn. La bàn lúc đầu đơn giản, qua một quá trình cải tiến thành la bàn ngày nay. Thế kỷ XII, kim chỉ nam được truyền đến người Ảrập, sau khi đến châu Âu được người châu Âu cải tiến thành la bàn tăng thêm tai mắt cho người đi biển . Ứng dụng kim chỉ nam vào hàng hải làm cho kĩ thuật hàng hải tiến bộ nhanh, mở ra kỷ nguyên mới cho ngành hằng hải. Thành công của các cuộc các cuộc phát kiến địa lí không thể tách rời công lao phát minh ra kim chỉ nam của người Trung Quốc. - Giấy và nghề làm giấy: Khi chưa có giấy thực vật, người ở vùng Lưỡng Hà dùng da dê, ván đất, người Ai Cập dùng giấy cỏ, người Ấn Độ dùng lá paytua, còn người Trung Quốc dùng giáp cốt, đá, lụa, tre và nan tre…làm giấy. Các loại giấy này gây tốn kếm và bất tiện, lại khó bảo quản. Năm 105, Thái Luân đã phát minh ra cách dùng vỏ cây, lưới cũ, giẻ rách…làm giấy. Giấy này được vua thừa nhận gọi là giấy Thái hầu. Việc phát minh ra giấy là một cuộc cách mạng trong việc Nhóm Glory 16
  22. Lịch sử văn minh thế giới truyền bá chữ viết, trao đổi tư tưởng và phổ biến kiến thức. Giấy được nhân loại tiếp thu nhanh chóng ( thế kỷ II truyền sang Việt Nam, thế kỷ IV truyền sang Triều Tiên…, năm 1690 sang Mỹ). Như vậy, Trung Quốc đã biết là ra giấy trước châu Âu hàng nghìn năm. - Nghề in: Tiếp theo nghề làm giấy, nghề in được xem là một cuộc cách mạng lớn lao của nhân đan Trung Quốc thời Cổ đại. Trước đó, họ đã có nghề truyền thống là khắc vào đá. Khoảng thời Tùy, nghề in khắc bản xuất hiện, lúc đầu là khắc và in tượng Phật, sau đó mới khắc in các loại sách khác. Cách in bàn bản khắc mất nhiều công sức và thời gian nên nên người ta nghĩ ra cách in cải tiến . Đầu thế kỷ XI, một người bình dân tên Tất Thăng (1041 - ?) đã phát minh ra cách in chữ rời bằng đất sét nung, Thẩm Quát cungc thử in chữ rời bằng gỗ nhưng không thành, nhưng sau đó, Vương Trinh đã thành công. Ngoài cách in chữ rời bằng đất nung và gỗ, người ta tiếp tục cải tiến đúc chữ rời bằng thiếc ( thời Nguyên), bằng đồng, chì ( thời Minh). Từ thời Đường, thuật in của Trung Quốc đã truyền sang Nhật Bản, Triều Tiên, sau đó sang Ba Tư, Ả Rập, châu Âu. Năm 1456, người Đức đã dùng chữ rời để in thành bản Thánh kinh… Người Trung Quốc đã đi trước họ 400 năm trong lĩnh vực in ấn này. Bốn phát minh trên có giá trị to lớn về mặt lịch sử phát triển khoa học kỹ thuật của thế giới. Fraincis Bacon đã chỉ rõ: nghề in, thuốc súng, kim chỉ nam – “ ba loại này đã thay đổi bộ mặt thế giới, loại thứ nhất trên bình diện văn học, loại thứ hai trên bình diện chiến tranh, laoij thứ ba trên bình diện hàng hải..” K.Marx cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của những phát minh đó đối với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản. 11/ Ảnh hưởng của nền văn minh Trung Quốc tới các nước và thế giới. Nhóm Glory 17
  23. Lịch sử văn minh thế giới LỜI KẾT Trung Quốc được xem là một trong những quốc gia có nền văn hóa rực rỡ nhất trên thế giới. Với một lãnh thổ rộng lớn, vị trí địa lý thuận lợi, dân cư đông đúc và đa dạng các dân tộc, người Trung Quốc đã xây dựng cho mình một nền văn minh lớn với các thành tựu có thể kể đến như là: thuốc súng, kim chỉ nam, giấy và nghề làm giấy, nghề in. Những thành tựu rực rỡ trên không chỉ cho thấy sức sáng tạo, tài năng , sức mạnh của dân tộc Trung Hoa, đồng thời nó đã trở thành một bộ phậncủa nền văn minh nhân loại. Có ảnh hưởng sâu sắc, to lớn đến nền văn minh của các dân tộc khác trên thế giới, đặc biệt là Việt Nam và các nước Đông Á. Để góp phần hiệu quả và rõ hơn trong việc nghiên cứu về nền văn minh Trung Quốc cổ trung đại nói chung và lịch sử văn minh nói riêng. Chúng em hy vọng thông qua bài thảo luận này sẽ có cái nhìn toàn diện hơn và sâu sắc hơn. Một nền văn minh rực rỡ và lượng kiến thức thì rất rộng nên trong quá trình làm bài nhóm không thể tránh được những thiếu sót, nên mong cô và các bạn nhận xét và đóng góp ý kiến để bài thảo luận được hoàn chỉnh hơn. Nhóm Glory 18
  24. Lịch sử văn minh thế giới TÀI LIỆU THAM KHẢO Lịch sử văn minh thế giới - Vũ Dương Ninh (chủ biên). NXB giáo dục . Lịch sử văn minh thế giới – Lê Phụng Hoàng (chủ biên). NXB giáo dục. Lịch sử thế giới cổ đại – Lương Ninh (chủ biên). NXB giáo dục. Nhóm Glory 19
READ  bài tiểu luận in English - Vietnamese-English Dictionary

Tiểu luận Kinh tế phát triển: Kinh tế Trung Quốc

LỜI MỞ ĐẦU

Việt Nam và Trung Quốc đang trong quá trình thực hiện công cuộc cải cách toàn diện nền kinh tế, chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (ở Việt Nam) và kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa mang màu sắc Trung Quốc (ở Trung Quốc); thực hiện chính sách mở cửa với nhiều đặc điểm phát triển và vấn đề tương tự nhau; đang trong giai đoạn phát triển thị trường, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý. Với lợi thế là nước tiến hành cải cách sau, Việt Nam có cơ hội để học tập và tận dụng những bài học thành công cũng như không thành công của Trung Quốc, tránh những tác động tiêu cực có thể nảy sinh trong quá trình chuyển đổi.

Trong bài viết này, chúng tôi sẽ đề cập đến bốn vấn đề chủ yếu:

  • Những nét cơ bản về Cộng hoà chủ nhân dân Trung Hoa;
  • Kinh tế Trung Quốc qua các giai đoạn phát triển;
  • Những thành tựu và hạn chế của kinh tế Trung Quốc sau 30 năm cải cách m ở cửa;
  • Những bài học từ cuộc cải cách mở cửa của Trung Quốc đối với Việt Nam.

Với những thông tin, đánh giá được trình bày trong bài viết, nhóm thảo luận chúng tôi hy vọng sẽ giúp cho các bạn sinh viên cũng như những người quan tâm khác hiểu biết đầy đủ hơn về những chính sách quan trọng tạo nên sự thành công của công cuộc cải cách kinh tế ở Trung Quốc trong tương quan so sánh với Việt Nam. Từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm bổ ích cho mỗi cá nhân để tiếp tục tham gia đóng góp nhiều hơn nữa vào sự nghiệp đổi mới ở nước ta.

1

CHƯƠNG I: MỘT VÀI NÉT CƠ BẢN VỀ NƯỚC CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN TRUNG HOA

1.1. VỀ VỊ TRÍ ĐỊA LÝ:

Trung Quốc nằm ở phía đông Châu Á, bờ tây Thái Bình Dương, có diện tích lãnh thổ rộng lớn với 9,6 triệu km2, là nước có diện tích lớn thứ ba trên thế giới, chỉ sau Nga và Canađa.

Biên giới đất liền của Trung Quốc dài hơn 20000 km, phía đông giáp Triều Tiên, phía đông bắc giáp Nga, phía bắc giáp Mông Cổ, phía tây bắc giáp Nga, Kazacxtan, phía tây giáp Kyrgyzstan, Tajikistan, Afganistan, Pakistan, phía tây nam giáp Ấn Độ, Nepal, Butan, phía nam giáp Mianmar, Lào và Việt Nam. Đông và đông nam trông ra biển. Trung Quốc có đường bờ biển dài, bằng phẳng, có nhiều hải cảng đẹp, phần lớn quanh năm không đóng băng. Phía bên kia bờ biển là các nước láng giềng: Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippines, Brunei, Malaysia và Inđônêxia.

1.2. VỀ DÂN SỐ:

Trung Quốc là quốc gia đông dân nhất trên thế giới, hiện có tổng số dân 1,28453 tỷ người (tính đến 12/2002, không bao gồm Hồng Kông, Ma Cao và Đài Loan). Trong đó số dân ở thành thị là 502,12 triệu, số dân nông thôn là 782,41 triệu.

Trung Quốc là một nước đa dân tộc thống nhất, có 56 dân tộc. Trong đó người Hán nhiều nhất, chiếm khoảng 92% dân số cả nước, dân tộc Choang có hơn 15 triệu người, tiếp sau là Mãn, Hồi, Duy Ngô Nhĩ, Di, Thổ Gia, Mông Cổ, Tạng, Bố Y, Dao, Triều Tiên, Bạch, Hà Nhì, Ca-dắc, Lê, và Thái, dân số đều lớn hơn một triệu. Những dân tộc ít người nhất chỉ có vài nghìn người như dân tộc Ngạc Luân Xuân và Ngạc Ôn Khắc.

Sự phân bố của các dân tộc Trung Hoa có đặc điểm là vừa tập trung vừa phân tán, vừa có khuynh hướng sống pha tạp, vừa có khuynh hướng sống tụ họp thành nhóm nhỏ, đan xen phân bố. Người Hán phân bố ở khắp nơi trên đất nước, chủ yếu tập trung ở lưu vực 3 con sông lớn là Hoàng Hà, Trường Giang, Châu Giang và đồng bằng Tùng Liêu, còn lại là phân tán ở các địa phương, sống chung với các dân tộc khác.

Các dân tộc thiểu số chủ yếu tập trung ở vùng đông bắc, tây bắc và khu vực biên giới phía tây nam, còn lại là phân bố rải rác ở khắp nơi trong cả nước. Người Hán và các dân tộc thiểu số vừa cư trú một cách tập trung vừa cư trú tương đối pha tạp, đã xúc tiến sự giao lưu

văn hoá và học tập lẫn nhau giữa các dân tộc, hình thành nên một mối quan hệ tương hỗ mật thiết không thể tách rời.

Hiến pháp Trung Quốc quy định: Tất cả các dân tộc nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đều bình đẳng, tất cả các dân tộc đều là anh em thân mật trong một đại gia đình thống nhất.

1.3. VỀ CHÍNH TRỊ:

Theo hiến pháp Trung Quốc, nước CHND Trung Hoa là một nước Xã hội Chủ nghĩa của nền chuyên chính nhân dân, do giai cấp công nhân lãnh đạo. Lấy liên minh công nông làm nền tảng. Chế độ Xã hội chủ nghĩa là chế độ cơ bản của Trung Quốc. Chuyên chính nhân dân là thể chế của nhà nước.

Cơ cấu Nhà nước bao gồm Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc (Quốc Hội), Chủ tịch nước, Quốc Vụ viện, Uỷ ban Chính trị Hiệp thương toàn quốc (gọi tắt là Chính Hiệp, tương tự Mặt trận tổ quốc của ta), Uỷ ban Quân sự Trung ương, Đại hội Đại biểu Nhân dân và Chính phủ các cấp ở địa phương, Toà án Nhân dân và Viện Kiểm sát Nhân dân.

Đảng cầm quyền: Đảng Cộng sản Trung Quốc thành lập ngày 1-7-1921, hiện có hơn 60 triệu Đảng viên. Bộ Chính trị có 25 người, trong đó có 9 Ủy viên thường vụ Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng có 8 người. Ngoài Đảng Cộng sản Trung Quốc, còn có 8 đảng phái khác nhau đều thừa nhận sự lãnh đạo của ĐCS trong khuôn khổ mà Trung Quốc gọi là “Hợp tác đa đảng dưới sự lãnh đạo của ĐCS”: Hội Cách mạng dân chủ, Liên minh dân chủ, Hội kiến quốc dân chủ, Hội xúc tiến dân chủ, Đảng dân chủ nông công, Đảng Chí công, Cửu tam học xã và Đồng minh tự trị dân chủ Đài Loan.

1.4. VỀ LỊCH SỬ:

Triều đại đầu tiên tồn tại là nhà Thương, định cư dọc theo lưu vực sông Hoàng Hà, vào khoảng thế kỷ 18 đến thế kỷ 12 TCN. Nhà Thương bị nhà Chu chiếm (thế kỷ 12 đến thế kỷ 5 TCN), đến lượt nhà Chu lại bị yếu dần do mất quyền cai quản các lãnh thổ nhỏ hơn cho các lãnh chúa; cuối cùng, vào thời Xuân Thu, nhiều quốc gia độc lập đã trỗi dậy và liên tiếp giao chiến, và chỉ coi nước Chu là trung tâm quyền lực trên danh nghĩa. Cuối cùng Tần Thủy Hoàng đã thâu tóm tất cả các quốc gia và tự xưng là hoàng đế vào năm 221 TCN, lập ra nhà Tần, quốc gia Trung Quốc thống nhất về thể chế chính trị, chữ viết và có m ột ngôn ngữ chính thống đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Trước khi nhà Tần thống nhất vào năm 221 TCN, “Trung Quốc” chưa hề tồn tại như một thực thể gắn kết. Văn minh Trung Quốc hình thành từ

nhiều văn minh các nước khác nhau, các nước này do các vương (王), công (公), hầu (侯),

hay bá (伯) trị vì. Mặc dù vẫn có một ông vua nhà Chu nắm giữ quyền lực trung ương trên

danh nghĩa, và chủ nghĩa bá quyền đôi lúc có ảnh hưởng nhất định, trên thực tế mỗi nước là một thực thể chính trị độc lập. Đây cũng là thời điểm mà triết lý Nho giáo cũng như tư tưởng của các triết gia khác có ảnh hưởng đáng kể đến tư tưởng chính trị – triết lí Trung Quốc.

Sau khi nhà Tần thống nhất Trung Quốc, khi đó người đứng đầu Trung Quốc được gọi là hoàng đế và một hệ thống hành chính trung ương tập quyền quan liêu được thiết lập. Sau khi nhà Tần sụp đổ, Trung Quốc lại có khoảng 13 triều đại khác nhau tiếp tục hệ thống các vương quốc, công quốc, hầu quốc, và bá quốc. Lãnh thổ Trung Quốc khi đó mở rộng hoặc thu hẹp theo sức mạnh của mỗi triều đại. Hoàng đế nắm quyền lực tối thượng, toàn năng và là người đứng đầu về chính trị và tôn giáo của Trung Quốc. Hoàng đế cũng thường tham khảo ý kiến các quan văn võ, đặc biệt là quan đại thần. Quyền lực chính trị đôi khi rơi vào tay các quan lại cao cấp, hoạn quan, hay họ hàng hoàng đế. Tuy nhiên, triều đại này không tồn tại lâu do nó quá độc đoán và tàn bạo.

Sau khi nhà Tần sụp đổ vào năm 207 TCN thì đến thời nhà Hán kéo dài đến năm 220 CN. Sau đó lại đến thời kỳ phân tranh khi các lãnh tụ địa phương nổi lên, tự xưng Thiên tử và tuyên bố Thiên mệnh đã thay đổi. Vào năm 580, Trung Quốc tái thống nhất dưới thời nhà Tùy. Vào thời nhà Đường và nhà Tống, Trung Quốc đã đi vào thời hoàng kim của nó. Trong một thời gian dài, đặc biệt giữa thế kỷ thứ 7 và 14, Trung Quốc là một trong những nền văn minh tiên tiến nhất trên thế giới về kỹ thuật, văn chương, và nghệ thuật. Nhà Tống cuối cùng bị rơi vào quân xâm lược Mông Cổ năm 1279. Vua Mông Cổ là Hốt Tất Liệt lập ra nhà Nguyên. Về sau một thủ lĩnh nông dân là Chu Nguyên Chương đánh đuổi chính quyền người Mông Cổ năm 1368 và lập ra nhà Minh, kéo dài tới năm 1644. Sau đó người Mãn Châu từ phía đông bắc kéo xuống lật đổ nhà Minh, lập ra nhà Thanh, kéo dài đến vị vua cuối cùng là Phổ Nghi thoái vị vào năm 1911.

Đặc điểm của phong kiến Trung Quốc là các triều đại thường lật đổ nhau trong bể máu và giai cấp giành được quyền lãnh đạo thường phải áp dụng các biện pháp đặc biệt để duy trì quyền lực của họ và kiềm chế triều đại bị lật đổ. Chẳng hạn như nhà Thanh (người Mãn Châu) sau khi chiếm được Trung Quốc thường áp dụng các chính sách hạn chế việc người Mãn Châu bị hòa lẫn vào biển người Hán vì dân họ ít. Tuy thế, những biện pháp đó đã tỏ ra không hiệu quả và người Mãn Châu cuối cùng vẫn bị văn hóa Trung Quốc đồng hóa.

Vào thế kỷ thứ 18, Trung Quốc đã đạt được những tiến bộ đáng kể về công nghệ so với các dân tộc ở Trung Á mà họ gây chiến hàng thế kỷ, tuy nhiên lại tụt hậu hẳn so với châu Âu. Điều này đã hình thành cục diện của thế kỷ 19 trong đó Trung Quốc đứng ở thế phòng thủ

READ  Tiểu luận: Lựa chọn địa điểm đầu tư khách sạn / Resort 4-5 sao

4

trước chủ nghĩa đế quốc châu Âu trong khi đó lại thể hiện sự bành trướng đế quốc trước Trung Á. Trước khi xảy ra nội chiến này cũng có một số cuộc khởi nghĩa của những người theo đạo Hồi, đặc biệt là ở vùng Trung Á. Sau đó, một cuộc khởi nghĩa lớn cũng nổ ra mặc dù tương đối nhỏ so với nội chiến Thái Bình Thiên Quốc đẫm máu. Cuộc khởi nghĩa này được gọi là khởi nghĩa Nghĩa Hòa Đoàn với mục đích đuổi người phương Tây ra khỏi Trung Quốc. Tuy đồng tình thậm chí có ủng hộ quân khởi nghĩa, Thái hậu Từ Hi lại giúp các lực lượng nước ngoài dập tắt cuộc khởi nghĩa này.

Năm 1911, sau hơn hai nghìn năm dưới quyền lãnh đạo của các hoàng đế, Trung Quốc lật đổ hệ thống chính trị triều đại và chuyển sang một nền cộng hoà. Nhà Thanh đã suy yếu, Trung Quốc vừa trải qua một thế kỷ bất ổn định, cả với những cuộc nổi dậy bên trong cùng với chủ nghĩa đế quốc từ bên ngoài. Các nguyên tắc Tân Khổng giáo, cho tới thời điểm đó, đã duy trì hệ thống triều đại bị nghi ngờ và sự biến mất của lòng tin cá nhân bị cho là nguyên nhân khiến tới 40 triệu người Trung Quốc sử dụng thuốc phiện năm 1900 (khoảng 10% dân số. Tới khi bị các lực lượng viễn chinh của các cường quốc trên thế giới thời ấy đánh bại

trong cuộc đàn áp Khởi nghĩa Nghĩa Hòa Đoàn, nhà Thanh đã gần như chính thức chấm dứt, vì không có chế độ khác thay thế nên sự tồn tại của nó vẫn được tính kéo dài tới tận năm 1912 Năm 1912, sau một thời gian dài suy sụp, chế độ phong kiến Trung Quốc cuối cùng sụp đổ hẳn và Tôn Trung Sơn thuộc Quốc Dân Đảng thành lập Trung Hoa Dân Quốc (THDQ). Ba

thập kỷ sau đó là giai đoạn không thống nhất — thời kỳ Quân phiệt cát cứ, Chiến tranh
Trung-Nhật, Nội chiến Trung Quốc. Nội chiến Trung Quốc chấm dứt vào năm 1949 và
Đảng Cộng sản Trung Quốc nắm được đại lục Trung Quốc. ĐCSTrung Quốc lập ra một nhà

nước cộng sản—nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (CHNDTH) — tự xem là nhà nước kế tục của Trung Hoa Dân Quốc. Trong khi đó, chính quyền THDQ do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo thì rút ra đảo Đài Loan, nơi mà họ tiếp tục được khối phương Tây và Liên Hiệp Quốc công nhận là chính quyền hợp pháp của toàn Trung Quốc mãi tới những năm 1970, sau đó hầu hết các nước và Liên Hiệp Quốc chuyển sang công nhận CHNDTH.

1.5. VỀ VĂN HOÁ – XÃ HỘI:

Người Trung Quốc vẫn luôn tự hào bởi họ có lịch sử và nền văn hoá lâu đời. Trung

quốc là một trong những nền văn minh lớn của nhân loại, là đại diện cho một phần ý thức hệ của người phương Đông. Chúng ta có thể kể đến một số những nhà tư tưởng lớn như Khổng Tử, Mạnh Tử, Lão Tử…với những triết lý đạo đức và giáo lý căn bản đã ảnh hưởng trực tiếp đến ý thức hệ của người Trung Quốc.

Trong suốt chiều dài    lịch sử, qua mỗi chiều đại thì nền văn hoá Trung quốc lại phát

triển thêm những nấc thang mới. Từ đời nhà Tần với bộ chữ viết đầu tiên, với công trình kiến

5

trúc nổi tiếng là Vạn Lý Trường Thành cho đến thời Đường, Minh với sự phát triển toàn diện trên cả lĩnh vực tư tưởng và văn hoá nghệ thuật. Và tiếp tục phát triển qua triều đại nhà Thanh cho đến ngày nay. Theo dòng xoáy của lịch sử dân tộc, các giá trị truyền thống, các loại hình văn hóa nghệ thuật…vẫn luôn được bảo tồn phát huy. Trong buổi khai mạc Olympic 2008, chúng ta đã thấy được toàn bộ quá trình hình thành và phát triển nền văn hoá Trung Quốc và thấy rõ người tự hào về nó như thế nào.

Trung Quốc là một nước đa dân tộc thống nhất, có 56 dân tộc. Trong đó người Hán nhiều nhất, chiếm khoảng 92% dân số cả nước. Sự phân bố của các dân tộc Trung Hoa có đặc điểm là vừa tập trung vừa phân tán, vừa có khuynh hướng sống pha tạp, vừa có khuynh hướng sống tụ họp thành nhóm nhỏ, đan xen phân bố. Các dân tộc thiểu số chủ yếu tập trung ở vùng đông bắc, tây bắc và khu vực biên giới phía tây nam, còn lại là phân bố rải rác ở khắp nơi trong cả nước. Người Hán và các dân tộc thiểu số vừa cư trú một cách tập trung vừa cư trú tương đối pha tạp, đã xúc tiến sự giao lưu văn hoá và học tập lẫn nhau giữa các dân tộc, hình thành nên một mối quan hệ tương hỗ mật thiết không thể tách rời.

Trung Quốc là một nước đa tôn giáo, số người có tín ngưỡng lên tới hơn 100 triệu người. Phật giáo, Hồi giáo, Thiên chúa giáo và Cơ đốc giáo đều được truyền bá tại Trung Quốc. Ngoài ra còn một tôn giáo đặc thù Trung Quốc là Đạo giáo, và một số tôn giáo khác như Samman giáo, Đông chính giáo, Đông ba giáo…

Phật giáo, Hồi giáo, Thiên chúa giáo, Cơ đốc giáo, Đạo giáo đều thiết lập những đoàn thể mang tính toàn quốc hoặc địa phương. Các đoàn thể tôn giáo mang tính toàn quốc gồm Hiệp hội Phật giáo Trung Quốc, Hiệp hội Đạo giáo Trung Quốc, Hiệp hội Hồi giáo Trung Quốc, Giáo đoàn Thiên chúa giáo Trung Quốc, Ủy ban vận động Ái quốc Tam tự Cơ đốc giáo Trung Quốc, Hiệp hội Cơ đốc giáo Trung Quốc… Các đoàn thể này tiến hành tuyển cử theo điều lệ riêng của mình để bầu ra cơ cấu lãnh đạo và người lãnh đạo, giải quyết các vấn đề liên quan đén tôn giáo của mình một cách tự chủ, độc lập, mở các trường đào tạo về tôn giáo, in ấn phát hành sách kinh, xuất bản báo chí tôn giáo, thực hiện các hạng mục công ích xã hội.

6

CHƯƠNG II: KINH TẾ TRUNG QUỐC QUA CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN

2.1. GIAI ĐOẠN 1 (Từ khi thành lập nước năm 1949 đến trước cải cách – mở cửa năm

1978)

2.1.1. Về thể chế kinh tế:

Kinh tế Trung Quốc thời kỳ này hoàn toàn theo chế độ công hữu đơn nhất tức là hoàn toàn thuộc sở hữu công cộng. Chỉ hình thành một khu vực kinh tế là khu vực kinh tế quốc doanh, khu vực kinh tế cá thể và tư nhân không được khuyến khích phát triển, khu vực này vốn chỉ được coi là nguồn bổ sung cho kinh tế công hữu công hữu. Chế độ cổ phần và hợp tác cổ phần bị coi là sản phẩm của CNTB. Chính vì vậy, các mặt hàng sản xuất theo kế hoạch và do Nhà Nước định giá, kế hoạch m ang tính pháp lệnh, với sự hạn chế trong kinh doanh của doanh nghiệp, cũng như quyền tự mua bán sản phẩm. Thể chế kinh doanh ngoại thương theo kiểu tập trung cao độ, Nhà nước luôn đứng ra bù lỗ.

2.1.2. Các chính sách phát triển:

2.1.2.1. Thời kỳ khôi phục kinh tế (1949 – 1952)

Sau ngày giải phóng, nền kinh tế Trung Quốc đang đứng trước nhiều khó khăn, sản xuẩt công thương nghiệp trong tình trạng giảm sút nghiêm trọng. Do vậy, công cuộc khôi phục kinh tế đã được triển khai trên tất cả các lĩnh vực kinh tế.

Năm 1950, nông thôn Trung Quốc đã tiến hành cải cách ruộng đất và đến năm 1952 cải cách ruộng đất đã cơ bản hoàn thành. Kết quả 46 triệu ha ruộng đất được chia cho 36 triệu nông dân. Do vậy, quan hệ kinh tế – xã hội trong nông thôn đã có sự thay đổi, quan hệ sản xuất phong kiến đã bị thủ tiêu, sản xuất nhỏ trở thành cơ sở cho sự phát triển của nông nghiệp.

Trung Quốc bước đầu xây dựng các hợp tác xã nông nghiệp, năm 1951 có 300 hợp tác xã đến năm 1952 đã tăng lên 4000 hợp tác xã.

Về công thương, bắt đầu tiến hành quốc hữu hoá các cơ sở công thương nghiệp của tư bản nước ngoài và tư sản mại bản. Trên cơ sở ấy, các cơ sở kinh tế quốc doanh đã hình thành và nhà nước nắm giữ mạch máu của nền kinh tế. Cuối năm 1952 kinh tế quốc doanh chiếm 50% giá trị sản lượng, 95% trong tổng số chu chuyển hàng hoá và vật tư.

Sau 3 năm tiến hành khôi phục kinh tế Trung Quốc đã thu được những thắng lợi cơ bản. Năm 1952, tổng giá trị sản lượng công nông nghiệp đạt 177.5% so với năm 1949. Tình

hình tài chính, giá cả và tiền tệ cũng đi vào ổn định, đời sồng nhân dân được cải thiện. Tuy nhiên, sản phẩm tính bình quân đầu người còn thấp do vậy để từng bước xoá bỏ tình trạng thấp kém và lạc hậu của nền kinh tế Trung Quốc tiến hành triền khai kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1953-1957).

2.1.2.2. Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1953- 1957)

Năm 1952, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đề ra đường lối chung cho thời kì qua độ: “Trong một thời kì dài, dần dần thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, cải tạo nông nghiệp, thủ công nghiệp và công thương nghiệp tư bản theo hướng xã hội chủ nghĩa”

Bước vào kế hoạch 5 năm, Trung Quốc tiến hành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa trên quy mô lớn, từ thành thị tới nông thôn với tất cả các đối tượng như nông dân, thợ thủ công, tiểu thương và công thương nghiệp tư bản tư doanh. Công cuộc cải tạo diễn ra với tốc độ nhanh và cơ bản hoàn thành vào nửa đầu năm 1956.

  Năm 1952 1957
Thành phần kinh tế  
     
       
Kinh tế quốc doanh   19% 33%
       
Kinh tế hợp tác xã   1,5% 56%
       
Kinh tế công tư hợp doanh   0,7% 8%
       
Kinh tế cá thể   73% 3%
       
Kinh tế tư bản tư doanh   7% 0,1%
       

Bảng 1: sự đóng góp của các thành phần kinh tế của Trung Quốc (1952-1957) (nguồn:

www.chinaeconomy_info.com.cn)

Về phát triển kinh tế, Trung Quốc chủ trương thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa với phương trâm xây dựng và phát triển công nghiệp nặng làm trung tâm gồm ngành điện lực, gang thép, hoá chất… Tốc độ của sản xuất công nghiệp tăng bình quân hàng năm 18%.

Về sản xuất nông nghiệp, phong trào cải tiến kĩ thuật và xây dựng các công trình thuỷ lợi đã góp phần thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Nhịp độ tăng hàng năm của nông nghiệp đạt 4.5%. Do vậy, sản lượng lương thực năm 1957 đạt 185 triệu tấn.

8

Việc thực hiện đạt được những thành tựu: Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đã được xác lập phổ biến và được xác định đóng vai trò chủ đạo trong phát triển của nền kinh tế. Sản xuất công nông nghiệp đều có những tiến bộ đáng kể.

Ngoài ra còn có những mặt hạn chế: Cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém, lao động thủ công là phổ biến, năng suất lao động thấp, trình độ quản lý vẫn bộc lộ nhiều yếu kém.

2.1.2.3. Kinh tế từ năm 1958 đến năm 1978

2.1.2.3.1. Thời kỳ “đại nhảy vọt” (1958 – 1965)

Vào tháng 9/1956, Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc đã họp và khẳng định lại đường lối xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đại hội còn đề ra những chỉ tiêu kinh tế của kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1958-1962) như tổng sản lượng sẽ tăng 75% so với năm 1957 trong đó công nghiệp tăng gấp 2 lần, nông nghiệp tăng 35%. Nhưng sau đó tình hình không diễn ra như vậy. Tư tưởng Mao Trạch Đông chi phối toàn bộ đường lối phát triển của Trung Quốc nên những mục tiêu của kế hoạch 5 năm đã được chỉnh sửa lại như nâng sản lượng công nghiệp lên 6.5 lần, sản lượng nông nghiệp lên 2.5 lần.

Trung Quốc phát động phong trào 3 ngọn cờ hồng: “Đường lối chung, đại nhảy vọt và công xã nhân dân”

Trong công nghiệp, Trung Quốc tập chung cao độ để phát triển công nghiệp nặng như luyện kim, chế tạo máy, hoá chất, điện lực… Bên cạnh đó còn phát động phong trào toàn dân làm công nghiệp, toàn dân làm gang thép. Sản xuất được nâng lên 80-100 triệu tấn. Do tập trung phát triển công nghiệp nặng, Trung Quốc đã rơi vào tình trạng mất cân đối nghiêm trọng giữa công nghiệp – nông nghiệp, công nghiệp nặng – công nghiệp nhẹ.

Về nông nghiệp, Trung Quốc đã xây dựng các công xã nhân dân, mỗi công xã có khoảng 5000 hộ nông dân. Cuối năm 1958, tất cả các nông dân đã được đưa vào các công xã. Trung Quốc tiến hành mở rộng tập trung tư liệu sản xuất của nông dân, kinh tế phụ gia đình bị xoá bỏ và thực hiện chính sách phân phối bình quân theo phương châm “cả nước ăn chung một nồi cơm to, cả nước cùng quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, càng nghèo càng cách mạng”.

Với tư tưởng phát triển kinh tế nhanh đã đưa Trung Quốc đến những hậu quả kinh tế nghiêm trọng: thu nhập quốc dân hàng năm giảm 3% trong đó sản lượng các mặt hàng công nghiệp đều giảm sút, sản lượng lương thực năm 1960 tụt xuống còn 160 triệu tấn và hàng năm Trung Quốc phải nhập khối lượng lương thực bằng 1/3 tổng giá trị hàng hoá nhập khẩu. Chính vì vậy, gây ra đảo lộn trong đời sống kinh tế – xã hội.

9

Hội nghị Trung ương 9 (1/1961) của Đảng cộng sản Trung Quốc đã đề ra những biện pháp điều chỉnh nhằm phục hồi nền kinh tế. Trong công nghiệp chủ trương giảm bớt các hạng mục xây dựng cơ bản, chuyển hướng chú trọng sản xuất nông nghiệp và hàng tiêu dùng. Nông thôn, các công xã nhân dân được củng cố lại, các chợ địa phương và kinh tế phụ gia đình đã được phục hồi. Những chính sách và biện pháp đã kịp thời giải quyết những khó khăn bất cập của nền kinh tế. Sản lượng nông nghiệp năm 1965 đạt 200 triệu tấn.

2.1.2.3.2. Giai đoạn “Đại cách m ạng văn hoá vô sản” (1966-1976)

Trong giai đoạn này,những chính sách kinh tế tả khuynh vẫn tiếp tục được áp dụng và gây ra những hậu quả tiêu cực cho sự phát triển của nền kinh tế.Trung Quốc lại tiếp tục đầu tư cho công nghiệp đặc biệt là công nghiệp quân sự.

Trong nông nghiệp, các công xã nhân dân lại quay trở về với chính sách tăng cường xã hội hoá tư liệu sản xuất, sức lao động. Kinh tế phụ gia đình của nông dân lại bị xoá bỏ. Hoạt động tài chính nhà nước được tăng cường thông qua đẩy nhanh tích luỹ từ nông nghiệp nên đời sống của nông dân càng gặp nhiều khó khăn. Chính sách lao động mang tính cưỡng bức và phân phối bình quân ở các công xã khiến nông dân không còn hứng thú với sản xuất.

Với chính sách kinh tế tả hữu trên đã khiến cho sức sản xuất bị giảm sút nghiêm trọng đồng thời còn gây nên những sáo trộn về kinh tế – xã hội và nền kinh tế lại rơi vào tình trạng khủng hoảng. Ba năm của thời kì “Đại cách mạng văn hoá” sản lượng của các loại sản phẩm công nghiệp đều giảm sút hoặc không tăng.

Bảng 2: một số sản lượng công nghiệp chủ yếu.

      Đv: triệu tấn
         
Chủng loại sp Năm 1966 Năm 1967 Năm 1968  
Phân bón 9.6 8.1 9.5  
         
Thép 13.0 10.0 14.0  
         
Xi măng 17.0 14.0 17.0  
         
Lương thực 212.0 218.0 212.0  
         

Nguồn: www.chinaeconomy_info.com .cn

 

10

Tiềm lực công nghiệp của Trung Quốc trong một số ngành so với một số nước trên thế giới rất thấp kém. Sản lượng điện bình quân đầu người Trung Quốc kém Mỹ 67 lần, kém Liên Xô 28 lần; về thép kém Nhật Bản 32 lần, Mỹ 19 lần…

Sản xuất nông nghiệp ngày càng trì trệ, cơ sở vật chất kỹ thuật ngày càng yếu kém. Công nghiệp cũng giảm sút nhanh chóng, năm 1971 kim ngạch ngoại thương chỉ bằng năm 1959 là 4.4 tỷ USD.

Những thảm hoạ kinh tế nói trên là hậu quả của những chính sách và biên pháp kinh tế coi thường các quy luật kinh tế khách quan. Một số chính sách đề ra chưa đúng hoàn cảnh, tình hình như chế độ phân phối bình quân trong điều kiện sản xuất xã hội còn thấp kém nên không kích thích lợi ích đối với người lao động. Chính xu hướng trên đã đẻ ra cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp gây trì trệ cho nền kinh tế. Kết quả cuối cùng là chính trị, xã hội rối loạn, lòng dân ly tán.

2.1.2.3.3. Kinh tế giai đoạn “Bốn hiện đại hoá”(1976 – 1978)

Năm 1976, Trung Quốc chủ trương thực hiện “Bốn hiện đại hoá”: công nghiệp, nông nghiệp, khoa học – kỹ thuật và quốc phòng. Mục tiêu của “Bốn hiện đại hoá” thể hiện những tham vọng rất lớn.Trong giai đoạn đầu, phải tiến tới đạt được sản lượng thép 60 triệu tấn, sản lượng lương thực 400 triệu tấn.

Thực hiện chủ trương trên, Trung Quốc cố gắng tăng nhanh tích luỹ, đẩy mạnh nhập khẩu thiết bị và vay vốn nước ngoài. Tỷ lệ tích luỹ trong thu nhập quốc dân tăng lên tới 36.5%. Trung Quốc tăng cường đầu tư cho xây dựng cơ bản, năm 1978 là 45 tỷ nhân dân tệ bằng 1.5 lần năm 1977. Nguồn vốn đầu tư của Trung Quốc chủ yếu tập trung vào công nghiệp hiện đại.

Những diễn biến kinh tế từ 1976-1978 phản ánh sự nôn nóng, là quá trình tiếp nối chủ trương “Đại nhảy vọt”. Do vậy, dẫn tới những ảnh hưởng nghiêm trọng cho nền kinh tế, giai đoạn 1976 – 1978 Trung Quốc phải nhập một lượng lương thực và thực phẩm chiếm 20% tổng giá trị hàng hoá nhập khẩu.

Trong công nghiệp, việc tập trung đầu tư cho công nghiệp nặng đã gây ra mất cân đối nghiêm trọng với công nghiệp nhẹ. Năm 1978, vốn đầu tư cho công nghiệp nặng chiếm 55.7% trong khi đó công nghiệp nhẹ chỉ có 5.7%.

Như vậy, chủ trương “Bốn hiện đại hoá” mà Trung Quốc đưa ra không phải là bài toán dễ dàng thực hiện. Trung Quốc đã nhận thức được chính sách nôn nóng không thể đem lại hiệu quả kinh tế như mong muốn.

11

2.2. GIAI ĐOẠN 2 (Thời kỳ cải cách – mở cửa từ năm 1978 đến nay)

Có thể nói thành tựu của công cuộc cải cách mở cửa 30 năm qua của trung quốc đó là những thành tựu to lớn phi thường làm nức lòng nhân dân trong nước và được cả thế giới ngưỡng mộ. Thực lực kinh tế, sức mạnh tổng hợp và địa vị kinh tế của trung quốc được nâng cao rõ rệt. Sau đây là một vài sự thay đổi:

2.2.1. Sự thay đổi hệ thống kinh tế

Trước cải cách Trung Quốc quan niệm phát triển kinh tế XHCN chỉ dựa trên 1 chế độ sở hữu: chế độ công hữu hoàn toàn. Cuộc cải cách 30 năm qua đã được thực hiện trên 1 quan niệm mới với sự tồn tại và phát triển của nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Ngoài công hữu cần phải phát triển cả kinh tế cá thể, liên doanh hay xí nghiệp 100% vốn nước ngoài.

Sau cải cách năm 1978, Trung quốc hoàn thiện hệ thống kinh tế cơ bản của nền kinh tế với chế độ công hữu là chủ thể trong khi chấp nhận việc cùng tồn tại các hình thức sở hữu khác; về vai trò của các chế độ sở hữu liên quan đến các thành phần kinh tế được khẳng định:cải cách mở cửa của Trung Quốc đặt trên cơ sở phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong đó chế độ công hữu làm chủ thể và coi chế độ phi công hữu là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế. Thực tế 30 năm mở cửa, lực lượng kinh tế phi công hữu đã đóng góp rất tích cực vào thành tựu chung đối với phát triển kinh tế Trung Quốc:

  • Thu hẹp khoảng cách giữa thành thị và nông thôn; đẩy mạnh sự phối hợp phát triển giữa các khu vực khác nhau; thiết lập một hệ thống thị trường hiện đại có trật tự, mở cửa và thống nhất; hoàn thiện hệ thống tạo việc làm, phân phối thu nhập và an sinh xã hội;
  • Và thiết lập một cơ chế thúc đẩy phát triển kinh tế và xã hội bền vững. Và cho kinh tế thị trường vừa phục vụ CNTB vừa phục vụ CNXH, đồng thời chế độ công hữu là chính nhưng các hình thức khác cùng tồn tại và phát triển, và cuối cùng là chế độ phân phối theo lao động là chính nhưng các hình thức phân phối khác cùng song song tồn tại.
  • Tại Viện kinh tế thuộc Viện hàn lâm khoa học phân định hiện nay Trung Quốc có 8 loại hình kinh tế:
  1. Kinh tế quốc hữu (co doanh nghiệp cạnh tranh va phi cạnh tranh)
  1. Kinh tế tập thể(theo quan niệm mới về công hữu)
  1. Kinh tế cá thể(cá nhân gia đình hay thuê<8 lao động)
  1. Kinh tế cổ phần(bao gồm công ty TNHH và công ty cổ phần)
  1. Kinh tế góp vốn hợp tư (liên doanh)
  1. Đầu tư nước ngoài
  1. Kinh tế Ma Cao và Hồng Kông
  1. Kinh tế tư nhân (cá nhân thành lập doanh nghiệp và thuê > 8 lao động)

Trong đó khẳng định kinh tế quôc hữu giữ vai trò chủ đạo, nhưng chủ đạo không phải là lắm số lượng lớn mà là giữ huyết mạch.

+ Tại trường đại học Trung Sơn (Quảng Đông)

Cho rằng: việc phân ra 8 loại hình chỉ là tương đối vì trong thực tế chúng luôn đan xen với nhau. Theo thống kê toàn Trung Quốc có 315.000 xí nghiệp quốc hữu với tổng số vốn chiếm trên 60% vốn xí nghiệp tòa xã hội thu hút 67% lực lượng lao động xã hội, số xí nghiệp này là các công ty tập đoàn còn lại tới 80% là xí nghiệp quốc hữu nhỏ (trước cải cách tới 99% là của công hữu).

Việc khẳng định chế độ công hữu làm chủ thể của nền kinh tế cùng với việc đề cao tính phổ biến của chế độ công hữu thì đồng thời Trung Quốc vẫn kiên trì thừa nhận vai trò chủ đạo của kinh tế quốc hữu. Giờ đây quan niệm về chủ đạo đã thay đổi: không phải năm tuyệt đối về lượng mà là khả năng chi phối toàn bộ nền kinh tế quốc dân thông qua việc nắm các huyết mạch chủ yếu

Thủ tướng Trung Quốc nói rằng đây là phương hướng cải cách hệ thống kinh tế của Trung Quốc và có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thúc đẩy chính sách cải cách, mở cửa cũng như công cuộc hiện đại hóa của nước này. Thủ tướng Ôn Gia Bảo nhấn mạnh: “Chỉ có đẩy mạnh cải cách mới có thể cải thiện được hệ thống kinh tế thị trường XHCN và hoàn thành nhiệm vụ xây dựng xã hội khá giả”.

2.2.2. Những thay đổi lớn về thể chế kinh tế

Sau cải cách thể chế kinh tế Trung Quốc từ chế độ công hữu đơn nhất chuyển sang chế độ lấy chế độ công hữu làm chủ thể, kinh tế nhiều loại sở hữu xùng phát triển.

Trước cải cách gần như hoàn toàn thuộc sở hữu công cộng chiếm tới 99,1% tổng sản phẩm trong nước vào năm 1978. Cùng với tiến trình cải cách nhận thức về công hữu ngày càng có sự thay đổi sâu sắc, đã tiến tới khẳng định rằng nguồn vốn trong chế độ công hữu không chỉ thể hiện ở số lượng mà còn ở chất lượng.Với chủ trương nhiều loại hình kinh tế cùng phát triển, không chỉ có các doanh nghiệp cá thể mà còn có các doanh nghiệp “3 loại vốn”, các doanh nghiệp theo chế độ sở hữu hỗn hợp như chế độ cổ phần và hợp tác cổ phần.

Kinh tế cá thể và kinh tế tư nhân được khuyến khích cùng phát triển nên đến cuối năm 1979 số hộ đăng ký kinh doanh là 29,47 triệu với 67,97 triệu lao động. Sự lớn mạnh của các

13

loại hình này ngày càng có tác dụng tích cực rõ trong việc đáp ứng đòi hỏi về đời sống cho nhân dân, làm cho đời sống kinh tế xã hội của cả nước thêm sôi động, từ chỗ được coi là bổ xung cho kinh tế công hữu, nay các loại hình kinh tế này đã được Quốc hội Trung Quốc dự kiến đua vào Hiến pháp sửa đổi, quy định đó “là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường XHCN” được Nhà Nước bảo hộ quyền lợi và lợi ích hợp pháp. Điều đó cho phép các loại hình kinh tế phi công hữu này sẽ phát huy được tiềm năng to lớn của mình trong phát triển kinh tế.

Các doanh nghiệp 3 loại vốn đã phát triển rất nhanh. Đến cuối năm 1979 đã lên tới 236 ngàn xí nghiệp đã đưa vào đất nước nguồn vốn còn thiếu va những quan niệm mới và kinh nghiệm quản lý mới.

Chế độ cổ phần và hợp tác cổ phần trước đây bị coi là sản phẩm của CNTB nay đã được cho phép hình thành và cho vào nề nếp. Đến cuối năm 1997 trong cả nước có 680 ngàn doanh nghiệp thí điểm thực hiện chế độ này với số vốn đăng kí là 1730.2 tỷ NDT.

Đến cuối năm 1979 tỷ trọng của các loại hình phi công hữu trong tổng sản phẩm trong nước đạt từ 0.9% tới 24.2% còn mức giảm tương ứng của kinh tế công hữu từ 99.1% tới 75.8%.

Bước đàu hình thành bộ khung thể chế thị trường kinh tế XHCN, chức năng của thị trường tăng lên mạnh mẽ: Trung Quốc đã thực hiện các biện pháp từ thấp đến cao nhằm chuyển dần vai trò điều tiết trực tiếp của kế hoạch sang điều tiết gián tiếp thông qua thị trường:

Trước hết thu hẹp các mặt hàng sản xuất theo kế hoạch và do Nhà Nước định giá, giảm kế hoạch pháp lệnh, xóa bỏ sự hạn chế trong kinh doanh của doanh nghiệp, mở rộng quyền tự mua bán sản phẩm.

Đã cải cách chế độ buôn bán lẻ trong thương nghiệp cho phép kinh tế phi quốc hữu được tham gia buôn bán, lập ra các chợ bán buôn và các trung tâm mậu dịch, hình thành dần thị trường hàng hóa,nối liền thành thị với nông thôn. Cho đến nay ở trung quốc có khoảng 95% hàng tiêu dùng và 80% hàng đầu tư là do quan hệ cung cầu trên thị trường định giá.

Hai là xây dựng và phát triển thị trường vốn bằng việc hoàn thiện thị trường tín dụng, khôi phục và hình thành thị trường cổ phiếu, quốc trái bị ngừng hoạt động đã nhiều năm.

Ba là, thị trường lao động được hình thành qua việc cho phép người lao động nông thôn được di chuyển vào thành phố.

14

Ngoài ra các thị trường khoa học kỹ thuật, thông tin , văn hóa cũng không ngừng phát triển. Việc cải cách thể chế phân phối đã bước đầu đi theo hướng lấy phân phối theo lao động làm chủ thể, nhiều hình thức phân phối cùng tồn tại.

Điều này thể hiện trước hết trong việc gắn thu nhập với kết quả sản xuất của người lao động: ở nông thôn chế độ trách nhiệm khoán đến hộ gia đình đã xóa bỏ cách làm ăn cũ” làm việc chỉ gào to, phân phồi thì dàn đều”, nay người nông dân làm nhiều thì hưởng nhiều làm ít thì hưởng ít. Ở thành phố các xí nghiệp đã có quyền tự chủ trong việc sử dụng công nhân và quêng phân phối lợi ích, việc tuyển dụng và trả lương cho họ là căn cứ vào kết quả kinh doanh chứ không phải do cáp trên quy định như trong thể chế cũ.

  • Tích cực đẩy mạnh xí nghiệp nhà nước: xí nghiệp nha nước chiếm 17% tổng số doanh nghiệp công nghiệp hạch toán độc lập nhưng chiếm 59.9 tổng giá trị tài sản, 46.25% thu nhập kinh doanh, 49.6%giá trị gia tăng của công nghiệp, 49,6% thuế lợi tức và đóng góp 60% ngân sách Nhà nước.
  • Cố gắng thực hiện cải cách thể chế đầu tư: đa dạng hoá các hình thức đầu tư
  • Cải cách thể chế ngoại thương theo hướng đa nguyên hóa thành phần kinh doanh, mở rộng quyền tự chủ: cùng với công cuộc cải cách thể chế kinh tế và sự phát triển của thị trường, thể chế kinh doanh ngoại thương kiểu tạp trung cao độ đã dần dần được xóa bỏ, các đơn vị ngoại thương được tự do hơn trong kinh doanh và đóng vai trò chủ thể của thị trường, tự chủ kinh doanh, tự chịu lỗ lãi. Năm 1996 Trung Quốc đã thí điểm hợp doanh với nước ngoài kinh doanh ngoại thương tại khu phố mới tại khu phố mới Phố Đông thượng hải vag đặc khu kinh tế Thâm Quyến.

2.2.3. Các chính sách phát triển thời kỳ này

2.2.3.1. Giai đoạn đầu cải cách (1979 – 1984)

Năm 1978, Hội nghị Trung ương 3 khóa XI của Đảng cộng sản Trung Quốc (12/1978) quyết định cải cách và mở cửa kinh tế. Đây là cuộc cải cách lớn, toàn diện về kinh tế, từ tư duy lý luận đến hoạt động thực tiễn, từ quan hệ sở hữu tài sản tới cơ chế quản lý kinh tế, từ điều hành nền sản xuất tới phân phối thu nhập…

Năm 1979: Trung Quốc quyết định xây dựng các đặc khu kinh tế, gồm ba đặc khu kinh tế là Thâm Quyến, Chu Hải, Sán Đầu tại tỉnh Quảng Đông và đặc khu kinh tế Hạ Môn tại tỉnh Phúc Kiến. Việc quyết định xây dựng đặc khu nhằm mở rộng hợp tác kỹ thuật và giao lưu kinh tế với nước ngoài, tận dụng FDI (vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài), đưa khoa học kỹ thuật tiên tiến vào Trung Quốc. Từ năm 1978-2007, FDI tích lũy vượt 760 tỉ USD, đứng đầu thu hút FDI tại các nước đang phát triển và đứng thứ hai thế giới.

15

Năm 1982, Trung Quốc thực hiện khoán sản lượng hoặc khoán toàn bộ đến hộ nông dân. Việc giải phóng năng lực sản xuất cho hàng trăm triệu hộ nông dân đã mang lại bước nhảy vọt trong kinh tế nông thôn. Giá trị tổng sản lượng nông nghiệp tăng bình quân 11,5%/năm trong giai đoạn 1980 – 1985, gấp 3,5 lần giai đoạn 1953 – 1980.

  • 3.2. Cải cách về hành chính – kinh tế ở các thành phố, xí nghiệp quốc doanh là nhiệm vụ trọng tâm và cải cách ở m ột số lĩnh vực khác (1985 – 1992)

Năm 1986, Trung Quốc khởi động cải cách doanh nghiệp nhà nước. Năm 1993, Trung Quốc hiện đại hóa khu vực kinh tế nhà nước gồm tổ chức các tập đoàn lớn, đổi mới kỹ thuật, áp dụng phương pháp quản lý khoa học. Các doanh nghiệp nhà nước vừa và nhỏ có quyền lựa chọn hình thức tổ chức và hoạt động như cổ phần hóa, cho thuê, chuyển thành sở hữu tập thể hoặc bán cho tư nhân. Đến cuối năm 2007, 1.550 doanh nghiệp lên sàn chứng khoán.

Năm 1992, Trung Quốc xác lập mục tiêu “kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa”. Mở đầu thị trường hóa trong lĩnh vực y tế và nhà ở thị trường hóa từ năm 1992 – 1994. Kết quả điển hình của thị trường hóa là doanh thu trong lĩnh vực kinh doanh ăn uống tăng gấp 225 lần; bình quân năm tăng 20,53%.

  • 3.3. Giai đoạn xây dựng thể chế kinh tế thị trường XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế (1992 đến nay)

Thực tế cho thấy năm 1998 Trung Quốc mở rộng nội nhu thông qua tăng cường đầu tư. Tuy nhiên không thể lạm dụng tăng mức đầu tư cao quá 25%, bởi song song với nó là quá trình điều chỉnh cơ cầu. Theo các chuyên gia, nguồn tài chính mà Chính phủ Trung Quốc khống chế chiếm 22% GDP. Chính sách tài chính tích cực mà chính phủ Trung Quốc luôn chú ý điều chỉnh chính sách tín dụng, phát triển thị trường vốn, đặc biệt tăng vốn đầu tư trực tiếp và thực hiện doanh nghiệp hóa ngân hàng thương mại, trao trả ngân hàng thương mại chức năng vốn có của nó, không ép ngân hàng thương mại đầu tư vốn vào các công trình thuộc cơ sở hạ tầng thu hồi vốn chậm, vì bản thân ngân hàng thương mại không có đủ nội lực. Đầu tư cho các hạng mục đó phải huy động nguồn vốn trong dân và vốn đầu tư nước ngoài, chính vì vậy nó đã thúc đẩy nhanh tốc độ cải cách hệ thống tài chính của Trung Quốc. Trung Quốc đã nhận rõ một nước lớn như Trung Quốc thì việc ngân hàng có yêu cầu nhất định trong cơ chế cho vay là hoàn toàn phù hợp. Đầu tư cơ sở hạ tầng cần phân chia thành hai loại là dịch vụ công cộng và dịch vụ kinh doanh. Hiện ở Trung Quốc xuất hiện tình trạng đầu tư xây dựng đường cao tốc vốn lớn mà thu hồi chậm, nguyên nhân là do lượng xe lưu hành trên đường cao tốc thấp hơn so với dự đoán ban đầu, có thể là do thói quen, song chủ yếu vẫn là do không muốn nộp phí đường cao tốc mà xe cộ lưu hành vẫn thích đi đường cũ.

16

Nhu cầu tiêu dùng là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển, là mục đích, kết quả phát triển lực lượng sản xuất. Vấn đề đặt ra đối với Trung Quốc hiện nay là là thay đổi xu thế hạn chế và coi nhẹ tiêu dùng. Then chốt là tìm ra nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng nhu cầu tiêu dùng cuả người dân.

Đinh Ninh Ninh – chuyên gia Trung tâm nghiên cứu phát triển Quốc Vụ Viện Trung Quốc cho rằng “Tăng đầu tư về cơ bản không thể giải quyết tận gốc vấn đề nhu cầu tiêu dùng. Những dự tính xã hội sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới nhu cầu tiêu dùng…” các biện pháp cải cách nhà ở gần đây được tiến hành ồ ạt làm cho hầu hết cán bộ viên chức, những người làm công ăn lương phải dùng hết số tiền tích lũy của họ, thậm chí đi vay để giải quyết vấn đề chỗ ở. Chính sách y tế, chữa bệnh chưa được ban hành làm cho người dân chưa yên tâm, đó là những yếu tố kìm hãm sức tiêu dùng. Nếu chính phủ đưa ra một số khuôn mẫu cải cách hệ thống bảo hiểm thì người dân sẽ yên tâm hơn và diều này sẽ kích thích nhu cầu tiêu dùng.

Thị trường ở Trung Quốc hiện nay thuộc về người mua, song nhìn chung mức tiêu dùng còn tương đối thấp. Đó là sự thể hiện mâu thuẫn về kết cấu tiêu dùng (kết cấu cung cầu). Để giải quyết vấn đề này cần khuyến khích tạo ra nhu cầu mới, mở rộng thị trường, tạo ra không gian lựa chọn lớn cho người tiêu dung.

Năm 2001, Trung Quốc chính thức trở thành thành viên WTO. Đến năm 2002, các ngân hàng nước ngoài đã mở 175 công ty với tổng số vốn 31,7 tỉ USD; chín công ty bảo hiểm nước ngoài thuộc tám nước đã mở 12 công ty tại Trung Quốc. Các tổ chức tài chính thu hút vốn FDI tập trung tại các thành phố và đặc khu như Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu, Thâm Quyến, Hạ Môn, Chu Hải, Thiên Tân…

Năm 2004, Trung Quốc cổ phần hóa các ngân hàng thương mại quốc doanh; đưa điều khoản bảo hộ tài sản tư hữu vào Hiến pháp. Căn cứ theo số liệu của tạp chí Forbes, Trung Quốc có 10 tỉ phú USD năm 2005 trong số 691 tỉ phú USD của thế giới.

Năm 2005, Trung Quốc bãi bỏ thuế nông nghiệp; đưa ra nhiệm vụ lịch sử xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa. Nông dân chiếm hơn 70% dân số Trung Quốc thoát nghèo, một số người và khu vực dần giàu lên. Từ năm 1978 – 2007, người nghèo ở nông thôn từ 250 triệu người giảm còn 14,79 triệu người.

Năm 2007: Luật về quyền tài sản tư ra đời. Theo Nhân dân nhật báo, tiền dự trữ trong dân tăng gấp 700 lần trong 30 năm. Theo con số thống kê của tạp chí Forbes tháng 3.2008, số lượng tỉ phú USD của Trung Quốc là 42 người; cộng thêm 26 tỉ phú của đặc khu Hongkong, Trung Quốc vượt qua Nhật Bản trở thành nước có nhiều tỉ phú nhất châu Á. Ngoài ra, Trung Quốc còn là một trong những nước có nhiều triệu phú nhất thế giới.

17

Trong 30 năm, GDP (tổng giá trị sản phẩm nội địa) bình quân tăng 9,7%, lần lượt vượt qua Ý, Pháp và Anh vào các năm 2004, 2005, 2006 và đang dần tiếp cận với Đức.

READ  TIỂU LUẬN:VẤN NẠN BẠO HÀNH TRẺ EM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.2.4. Một số vấn đề về văn hoá – xã hội

Theo kết quả nghiên cứu về phân tích và dự đoán tình hình xã hội Trung Quốc 2004-

2005 vừa được Viện Khoa học xã hội Trung Quốc công bố đầu năm này thì Trung Quốc đang bước vào thời kỳ phát triển kinh tế khả quan nhất, đồng thời cũng tồn tại bảy vấn đề xã hội nghiêm trọng cần phải cảnh giác.

Mâu thuẫn xã hội gia tăng

Năm 2004, số vụ khiếu nại của nông dân Trung Quốc lên cấp trên gia tăng, trong đó một bộ phận nông dân kiện vì bị mất đất canh tác nhưng chưa được bồi thường công bằng và ổn định cuộc sống thỏa đáng.

Theo số liệu dự tính, hiện Trung Quốc có khoảng 40 triệu nông dân bị mất đất. Thế nhưng pháp luật về trưng dụng đất chưa theo kịp tiến trình phát triển, mức bồi thường chưa thỏa đáng nên số vụ khiếu kiện lên cấp trên gia tăng trong năm 2004.

Phân hóa giàu – nghèo có xu hướng mở rộng

Theo một kết quả điều tra xã hội trên 50.000 hộ dân ở các TP, thị trấn Trung Quốc,

  • nhóm người có mức thu nhập cao nhất thì mức thu nhập bình quân đầu người sáu tháng đầu năm 2004 là 13.322 NDT (khoảng 26 triệu đồng), bằng 2,8 lần mức thu nhập bình quân cả nước; trong khi đó nhóm người thu nhập thấp nhất chỉ đạt mức bình quân 1.397 NDT, bằng 29% mức thu nhập Tỉ lệ giữa mức thu nhập cao nhất và thấp nhất năm 2003 là 9,1:1, năm 2004 tăng lên 9,5:1. Phân hóa thu nhập vùng, nhất là vùng duyên hải giàu có và vùng miền Tây nghèo khó cũng có xu hướng tương tự. Chủ trương để một số khu vực, cá nhân có điều kiện giàu lên trước rồi kéo theo các đối tượng khác giàu sau tuy có

khuyến khích một số vùng, dân cư giàu lên nhanh chóng, góp phần tăng trưởng kinh tế nhưng lại mở rộng thêm phân hóa giàu nghèo.

Phân hóa giàu nghèo mở rộng và giá thực phẩm tăng cao trong vài năm gần đây đã dẫn đến sự mất thăng bằng về tâm lý trong một số dân cư. Theo một điều tra, hai năm gần đây tốc độ tăng trưởng kinh tế Trung Quốc nhanh hơn nhưng mức độ hài lòng và lòng tin của tầng lớp thu nhập thấp lại giảm.

Giảm nghèo vẫn là nhiệm vụ nặng nề trong thế kỷ mới đối với Trung Quốc

Qua 25 năm cải cách mở cửa, số người nghèo khổ ở Trung Quốc từ 250 triệu người giảm xuống còn 29 triệu người, đó là bước thành công lớn. Nhưng hiện nay đối với nông

18

thôn Trung Quốc, tiêu chuẩn nghèo khổ mới ở mức thu nhập bình quân đầu người cả năm dưới 625 NDT, thấp hơn mức 900 NDT theo tiêu chuẩn của Liên Hiệp Quốc.

Nạn thất nghiệp

Hằng năm ở các TP và thị trấn Trung Quốc, số lao động mới trưởng thành cộng với số thất nghiệp lên đến con số 24 triệu người, bằng dân số của một nước trung bình, nhưng mỗi năm Trung Quốc chỉ tạo ra được 9 triệu việc làm mới.

Chống tham nhũng

Những năm qua nguồn nhân lực và vật lực của các cơ quan kiểm tra kỷ luật, giám sát, kiểm sát, kiểm toán nhà nước… của Trung Quốc đổ vào việc chống tham nhũng rất lớn. Tuy hàng loạt quan tham đã bị đưa ra ánh sáng và bị xử lý nghiêm minh nhưng những vụ tham nhũng lớn và nghiêm trọng vẫn xuất hiện.

Chi phí chống tham nhũng cao đòi hỏi phải hoàn thiện chế độ; từng bước cải cách thể chế chính trị; công khai và công bằng trong bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ; xây dựng chế độ khai báo tài sản và thẩm tra tài sản khi thôi việc đối với công chức.

Hạn chế về nguồn tài nguyên, năng lượng và m ôi trường

Nguồn tài nguyên tính theo đầu người của Trung Quốc tương đối thấp. Về dầu mỏ Trung Quốc phải tìm nguồn khắp nơi trên thế giới, không những với Nga, Trung Cận đông… mà còn sang cả Brazil xa xôi để ký hợp đồng đổi công trình lấy dầu mỏ. Lượng tiêu hao các loại vật tư cơ bản của Trung Quốc cũng rất lớn.

Năm 2003, lượng tiêu thụ gang thép, ximăng của Trung Quốc chiếm 1/3 toàn cầu. Ngoài ra, còn vấn đề môi trường, chất ô nhiễm thải ra vượt xa năng lực làm sạch môi trường, tình trạng môi trường sinh thái bị phá hoại ở một số khu vực đang rất nghiêm trọng..

Đời sống – văn hoá

Từ sau khi cải cách kinh tế đã đạt được những thành tựu to lớn, làm cho thu nhập của mọi người dân tăng lên, và đời sống vật chất ngày càng được nâng cao. Nhưng do chính sách phát triển trước năm 2000 là phát triển vùng trọng điểm, làm chênh lệch thu nhập giữa các vùng, và khoảng cách giầu nghèo ngày càng gia tăng.

Quá trình đô thị hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã làm mờ nhạt các bản sắc vốn có

  • một bộ phận người dân thành thị. Các giá trị truyền thống cũng dần bị mai một, một bộ phận giới trẻ theo trào lưu phương Tây đã dần đánh mất đi những giá trị đạo đức truyền thống.

19

Tóm lai, chạy theo tăng trưởng, xem nhẹ phát triển bền vững về mặt xã hội, văn hoá và môi trường, Trung Quốc không phải là mô hình tốt cho Việt Nam học tập. Nhưng ngay cả sau khi phải trả những cái giá nhất định về những khía cạnh đó để đạt cho kỳ được mục tiêu tăng trưởng trong ba thập kỷ liên tục thì quá trình công nghiệp hóa của Trung Quốc vẫn còn phải chấp nhận những cái giá lớn hơn nữa.

20

CHƯƠNG III. NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ

3.1. NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHẢI ĐỐI MẶT

Trong nửa thế kỷ tồn tại của nước CHND Trung Hoa, chỉ từ khi đất nước thực hiện quốc sách chiến lược cải cách – mở cửa từ Hội nghị Trung ương lần thứ 3 khoá XI ĐCS Trung Quốc (họp tháng 12-1978) vạch ra, Trung Quốc mới thực sự bước vào con đường xây đựng và phát triển ổn định, tiến tới hiện đại hoá, thực hiện dân giàu nước mạnh, đạt được nhiều thành tựu huy hoàng và để lại những bài học sâu sắc cho các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi.

Cuộc cải cách mở của của Trung Quốc có một ý nghĩa to lớn, được đánh giá cao trong nước và trên quốc tế, vì nó đã đem lại cho Trung Quốc những biến đổi lịch sử quan trọng.

Có thể nói thành tựu của công cuộc cải cách – mở cửa gần 30 năm qua của Trung Quốc đã được thể hiện rực rỡ nhất trong thời kỳ Kế hoạch 5 năm (2001-2005) lần thứ 10 của nước này, đó là những thành tựu to lớn phi thường, làm nức lòng nhân dân trong nước và được cả thế giới ngưỡng mộ.

Trung Quốc đã khống chế có hiệu quả những nhân tố không ổn định, không lành mạnh trong quá trình phát triển, ứng phó thành công với những biến đổi sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Thực lực kinh tế, sức mạnh tổng hợp và địa vị quốc tế của Trung Quốc được nâng cao rõ rệt.

Từ những thành tựu nổi bật

Về kinh tế: Trung Quốc đã liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới. Giá trị tổng sản lượng quốc nội (GDP) tăng trưởng bình quân 8,8% mỗi năm.

Bảng 3: Tốc độ tăng trưởng GDP qua các năm

Đơn vị tính: Tỷ nhân dân tệ

  Chỉ tiêu 2002 2003 2004 2005 2006
             
1. GDP theo giá thị trường thực tế 12033,3 13582,3 15987,8 18386,8 20940,7
             
2. GDP theo giá so sánh 2000 11722,7 12895,0 14197,4 156373,9 17351,0
   
             

(Nguồn số liệu: Những chỉ tiêu chủ yếu – ADP 2007. Niên giám thống kê 2007 – TCTK)

GDP bình quân đầu người tăng liên tục qua các năm và Trung Quốc đã thoát khỏi nước có thu nhập thấp.

Bảng 4: GDP bình quân đầu người theo giá thực tế:

Đv tính: đô la Mỹ – USD

Chỉ tiêu 2002 2003 2004 2005 2006
           
GDP bình quân đầu người 1.135,5 1.273,6 1.490,3 1.720,1 2.016,1
           

(Nguồn số liệu: Những chỉ tiêu chủ yếu – ADP 2007. Niên giám thống kê 2007 – TCTK)

Lợi nhuận xí nghiệp công nghiệp từ mức 439,3 tỷ Nguyên (đơn vị tiền Nhân dân tệ), tăng lên tới mức 1.134,2 tỷ Nguyên.

Lĩnh vực công nghệ với tiến trình công nghiệp hoá, tin học hoá được đẩy nhanh. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp giai đoạn này đạt bình quân 10,7%. Tỷ trọng công nghiệp trong nền kinh tế từ 43,6% năm 2001 tăng lên 45,9% năm 2004. Sản lượng các sản phẩm quan trọng đều gấp hơn hai lần như: thép thô tăng 144 triệu tấn, thép thành phẩm tăng 165,77 triệu tấn, xe hơi tăng 3 triệu chiếc, xi măng tăng 373 triệu tấn, tăng 62%; điện lực tăng 831,4 tỷ kWh, tăng 61,3%.

Bảng 5: Giá trị sản xuất một số ngành công nghiệp

Đvtính: Tỷ nhân dân tệ

Năm 2002 2003 2004 2005 2006  
Ngành
           
             
Công nghiệp (khai khoáng, chế 4.786,8 5.399,5 6.020,5 6.718,8 7.558,7  
biến, điện, khí đốt và nước)
           
             

(Nguồn: Những chỉ tiêu chủ yếu – ADB 2007)

Sự phát triển thành thị – nông thôn được cân đối hơn. Nhà nước đã thi hành chủ trương miễn thuế nông nghiệp, trực tiếp bù trợ cho nông dân trồng lương thực, sản xuất nông nghiệp có sự chuyển biến quan trọng, sản lượng lương thực năm 2004 đạt gần 469,5 triệu tấn.

22

Bảng 6: Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp

Đvtính: Tỷ nhân dân tệ

  Năm 2002 2003 2004 2005 2006
Ngành  
           
             
Nông nghiệp   1.556,7 1.595,6 1.696,1 1.784,3 1.873,6
             

(Nguồn: Những chỉ tiêu chủ yếu – ADB 2007)

Thể chế quản lý mở rộng: Kinh tế được cải cách, đặc biệt là cải cách xí nghiệp quốc hữu. Trong tổng số 2.903 xí nghiệp quốc hữu hoặc nhà nước chiếm cổ phần khống chế, đến cuối năm 2004 có 1.464 xí nghiệp được chuyển đổi thành xí nghiệp loại hình công ty cổ phần. Thể chế giám sát quản lý vốn quốc hữu bước đầu được hình thành. Các ngành trọng điểm thông tin điện tử, hàng không dân dụng, điện lực được đẩy nhanh cải cách thể chế. Việc cải cách thuế thu ở nông thôn đạt được tiến bộ lớn, thị trường thu mua lương thực được mở cửa toàn bộ, trở thành thị trường kinh doanh nhiều luồng mạch.

Lĩnh vực mở cửa với bên ngoài đạt nhiều thành tựu nổi bật. Xuất nhập khẩu hàng hoá liên tục đạt mức tăng trưởng cao; đưa Trung Quốc từ vị trí thứ 8 vượt lên đứng vị trí thứ ba thế giới về thương mại. Cơ cấu hàng xuất khẩu được cải thiện, sản phẩm cơ điện và sản phẩm công nghệ cao chiếm 54,5% và sản phẩm mới chiếm 27,9% trong cơ cấu hàng xuất khẩu.

Bảng 7: Giá trị kim ngạch xuất, nhập khẩu

Đvtính: Triệu đô la Mỹ

  Năm 2002 2003 2004 2005 2006
Ngành  
           
             
Xuất khẩu   325.600 438.230 593.320 761.950 969.073
             
Nhập khẩu   295.170 412.760 561.230 659.950 791.610
             
Cán cân thương mại   30.430 25.470 32.090 102.000 177.463
             

(Nguồn: Những chỉ tiêu chủ yếu – ADB 2007)

Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Năm 2005 mức thu nhập, chi dùng của dân cư thành thị đạt trên 10.000 Nguyên, tăng 59% so với năm 2000; thu nhập của nông dân vào

23

khoảng 4.000 Nguyên, tăng 45% so với năm 2000. Số người nghèo khó ở nông thôn từ 32,09 triệu năm 2000 giảm xuống còn 26,1 triệu năm 2004.

Các sự nghiệp phúc lợi xã hội phát triển nhanh. Nhà nước tăng mạnh ngân sách và sự trợ giúp cho khoa học công nghệ, giáo dục, văn hoá, y tế, thể dục thể thao. Các công trình khoa học công nghệ cơ sở quan trọng được xây dựng nhiều. Các kế hoạch nghiên cứu công nghệ cao, then chốt, các kế hoạch nghiên cứu phát triển khoa học công nghệ cơ bản trọng điểm nhà nước tiến triển thuận lợi. Thành tựu lớn tiêu biểu cho sự tiến bộ về khoa học công nghệ của Trung Quốc là việc phóng thành công con tầu vũ trụ Thần Châu-6 trong đó lần đầu tiên hai phi công vũ trụ Trung Quốc đã bay nhiều ngày trong vũ trụ. Sự nghiệp giáo dục phổ thông và giáo dục dạy nghề đều phát triển nhanh. Quy mô giáo dục bậc cao liên tục mở rộng.

Việc xây dựng pháp chế dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng văn minh tinh thần được chú trọng và tăng cường. Sinh hoạt dân chủ ở cơ sở được mở rộng, các thể chế thôn xóm tự quản, phường tự quản, công khai việc xóm, công khai việc xí nghiệp, công khai việc hành chính từng bước được xúc tiến.

Những tồn tại và khó khăn cần tiếp tục giải quyết:

Sau 30 năm cải cách mở cửa, Trung Quốc đã thu được những thành tựu huy hoàng, nhưng cũng còn gặp rất nhiều khó khăn mâu thuẫn. Lúc giao thời giữa hai thế kỷ, trong tình hình cạnh tranh gay gắt và diễn biến phức tạp trong nền kinh tế thế giới, Trung Quốc càng gặp nhiều thách thức cần xử lý. Những khó khăn, mâu thuẫn, tiêu cực đó, có thể chia ra thành bốn loại vấn đề như sau:

  • Những vấn đề mới nảy sinh sau khi giải quyết các vấn đề cũ. Sau khi phá bỏ chủ nghĩa bình quân “ăn cơm nồi to”, đã động viên được tính tích cực chủ động của người lao động. Cơ chế thị trường đi vào nền kinh tế, cả xã hội trở nên năng động và đầy sức sống. Đó là kết quả quan trọng mà cuộc cải cách đã đem lại. Song đồng thời lại nảy sinh ra một loạt vấn đề mới. Trước hết là khoảng cách về thu nhập giữa các cá nhân, ngành nghề, và khu vực bị mở rộng. Nếu như khoảng cách về thu nhập hình thành do sự khác biệt về thái độ lao động, về số lượng và chất lượng lao động, thì có khoảng cách ấy là hợp lý, cần thiết và không thể tránh khỏi. Về

mặt chính sách, chủ trương cho phép một số người, một số vùng giàu lên trước là có lợi cho sự phát triển kinh tế xã hội do tác dụng kích thích động viên của nó.

Tuy nhiên, trong quá trình cải cách đã xuất hiện tình trạng quá chênh lệch về thu nhập giữa các cá nhân, ngành nghề, khu vực, không tương ứng với sự khác nhau về lao động; đặc biệt thu nhập do làm ăn phi pháp đẻ ra m ột lớp người phất lên quá nhanh; nạn tham ô hối lộ lan tràn, vừa phá hoại sự phát triển bình thường của nền kinh tế, vừa ảnh hưởng đến tính tích

24

cực của người lao động và sự ổn định xã hội. Đó là vấn đề nghiêm trọng đẻ ra trong cải cách Hai là, quá trình chuyển đổi nền kinh tế đã tạo ra nạn dư thừa lao động, thất nghiệp, trong điều kiện việc cải cách thể chế bảo hiểm xã hội trì trệ. Trước đây ở Trung Quốc nạn dư thừa lao động và thất nghiệp được che dấu bởi chủ nghĩa bình quân và chế độ bao cấp. Thực hiện cải cách, chuyển đổi kinh tế, những vấn đề này bộc lộ và ngày càng nặng nề. Trung Quốc là nước nghèo, tiến trình cải cách diễn ra không lâu, do đó chế độ bảo hiểm xã hội chưa kiện toàn, chưa có được tác dụng giảm sức ép của nạn thất nghiệp, giảm sự khốc liệt của nạn dư thừa nhân công. Đây là thách thức rất lớn đối với Trung Quốc. Vấn đề bảo hiểm ở Trung Quốc, vẫn là khâu yếu, một mặt do kinh phí không cho phép, mặt khác do hậu quả của thể chế cũ, diện hưởng bảo hiểm quá lớn; mặt khác nữa, diện hưởng bảo hiểm mấy năm gần đây mở rộng, kết quả của cuộc cải cách xí nghiệp Nhà nước. Ba là, các vấn đề đạo đức, văn minh tinh thần, giáo đục, phạm tội, chuyển dịch lao động … nảy sinh ra trong tiến trình cải cách, có nguy cơ làm băng hoại cơ sở xã hội, rối loạn đời sống, cũng là những tiêu cực mà Trung Quốc đang phải xử lý.

  • Những vấn đề của bản thân cuộc cải cách đòi hỏi giải quyết sâu sắc và triệt để hơn. Điển hình nhất là sự trì trệ của cái cách xí nghiệp Nhà nước. Các xí nghiệp này hiện nay vấp phải ít nhất “5 cái khó” trong chuyển đổi cơ chế kinh doanh: xí nghiệp khó phá sản, công nhân khó cho thôi việc, chính quyền và xí nghiệp khó tách rời, sức sống khó bốc dậy, sức cạnh tranh thị trường khó tăng cường. Hoặc vấn đề chu kỳ kinh tế, lặp đi lặp lại hiện tượng “nới lỏng thì loạn, thắt vào thì chết”. Trung Quốc đã trải qua nhiều cơn “sốt” về kinh tế, sau đó lại xuất hiện sự tiêu điều. Ví dụ nửa đầu năm 1993 khi tổng sản phẩm trong nước tăng trên 15%, đã xuất hiện tình trạng “4 cao 2 loạn”, đó là đầu tư cao, lượng tiền trong lưu thông cao, giá cả cao, nhập khẩu cao, và thị trường tiền tệ hỗn loạn, trật tự thị trường tư liệu sản xuất hỗn loạn.

Nhờ biện pháp thắt thật tiền tệ, nâng cao lãi suất, các cơn sốt đã giảm dần, nạn lạm phát nhẹ đi, giá cả hạ thấp. Song sau khi nền kinh tế Trung Quốc “tiếp đất an toàn” từ đầu năm 1996, với mức tăng giá cả 6,1%, thì từ cuối năm 1997 đến nay đã có hiện tượng đình trệ. Năm 1997 giá hàng tiêu dùng chỉ tăng 2,8%, năm 1998 lại giảm 0,8% so với năm 1997. Hàng hoá ứ thừa tràn ngập trong các kho khiến Nhà nước phải ngừng sản xuất một số mặt hàng, điều đó một phần do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tiền tệ châu á đối với hàng xuất khẩu Trung Quốc, một phần do sản xuất trùng lặp, việc sử dụng công cụ tài chính để điều tiết kém tác dụng.

  • Những khó khăn vốn có của Trung Quốc càng nổi bật cùng với quá trình hiện đại hoá kinh tế. Đó là những vấn đề nợ tài nguyên, con người, lương thực, điều kiện tự nhiên… Về tài nguyên, tính theo đầu người, Trung Quốc là nước nghèo. Do đó việc tiết kiệm tài nguyên như đất, năng lượng cùng các loại tài nguyên khác là vấn đề rất lớn. Việc hạn chế sinh đẻ theo kế

25

hoạch của Trung Quốc đã thu được kết quả rõ rệt, song những vấn đề về gia đình và xã hội cũng nảy sinh cùng với việc chỉ cho phép có một con, đồng thời Trung Quốc còn đang đứng trước cửa ải cần vượt qua là vấn đề xã hội bị lão hoá .Trung Quốc là một nước dân đông, đất ít, sản xuất lương thực luôn luôn là vấn đề nóng bỏng vì có liên quan đến sự tồn tại của số dân bằng 1/4 loài người. Vậy mà nông nghiệp Trung Quốc lại chưa phát triển, chưa thoát khỏi cảnh “nhờ trời mới có miếng ăn” do đầu tư vào cơ sở hạ tầng còn ít ỏi, khả năng phòng chống thiên tai còn hạn chế. Theo các nhà khoa học, chất lượng điều kiện tự nhiên của Trung Quốc tương đối thấp, kém ổn định, bởi vì đây là một quốc gia nhiều thiên tai vào loại nhất thế giới. Mỗi năm Trung Quốc bị thiệt hại tới 100 tỷ NDT do thiên tai. Cùng với sự phát triển kinh tế, sự phá hoại của con người đối với môi trường tự nhiên cũng tăng lên. Người ta đã khẳng định, nguyên nhân của nạn lụt lớn năm 1998 không phải chỉ do thiên tai mà còn do nhân hoạ gây ra.

  • Thách thức đi đôi với cơ hội trong giao lưu quốc tế. Xu hướng toàn cầu hoá đang ngày càng rõ rệt, giao lưu và hợp tác kinh tế giữa các nước ngày càng chặt chẽ. Nền kinh tế Trung Quốc đã trở thành một bộ phận quan trọng của nền kinh tế thế giới. Thế giới cần Trung Quốc, mà Trung Quốc cũng không thể tách rời thế giới. Nhưng sự nhất thể hoá kinh tế vừa trợ giúp nền kinh tế Trung Quốc phát triển, mà cũng mang lại những khó khăn cho nước này. Cuộc Cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế giới phát triển mạnh mẽ đang làm thay đổi những ngành nghề truyền thống và phương thức sản xuất truyền thống. Trung Quốc có thể nhờ đó mà phát huy thế mạnh của nước đi sau, tận dụng thành quả khoa học tiên tiến của thế giới, song cũng có thể tụt hậu so với trình độ quốc tế nếu như không vượt qua được sức ép cạnh tranh. Mặt khác nền tài chính tiền tệ thế giới đang ngày càng linh hoạt, có tác dụng thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các nước, song cũng có thể mang lại rủi ro cho các nước. Điều này có thể thấy rõ qua những ảnh hưởng bất lợi đó cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ mang lại cho

nền kinh tế Trung Quốc hai năm vừa qua, như đầu tư nước ngoài giảm, xuất khẩu sụt, giá từ đồng tiền thực tế bị lung lay ít nhiều . . .

3.2. GIẢI PHÁP

  • Kích cầu nuôi cầu trong nước: Việc đẩy nhanh và giữ vững mức tăng trưởng kinh tế là cơ sở cho việc mở rộng các cơ hội việc làm, cải thiện đời sống người dân và duy trì ổn định xã hội, và cũng là điều kiện quan trọng để đẩy mạnh việc điều chỉnh kết cấu và đi sâu cải cách.
  • Tăng nhanh phát triển kinh tế nông thôn, nỗ lực nâng cao thu nhập cho người nông dân, phát triển sức sản xuất nông nghiệp, nâng cao sức mua của người nông dân, là khâu quan trọng trong việc nuôi cầu và kích cầu trong nước, đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế quốc dân và duy trì ổn định xã hội.

26

  • Tích cực đẩy mạnh điều chỉnh kết cấu kinh tế và cải cách thể chế kinh tế, giải quyết những nhân tố hạn chế sự phát triển kinh tế như mâu thuẫn về kết cấu trong nền kinh tế và chướng ngại về thể chế. Đây là những biện pháp căn bản để duy trì phát triển kinh tế, nâng cao tố chất và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
  • Thích ứng với những tình hình mới sau gia nhập WTO, nâng cao toàn diện m ức mở cửa ra bên ngoài: Trung Quốc gia nhập WTO đánh dấu một giai đoạn mới về mở cửa ra bên

ngoài. Trung Quốc sẽ tham gia hợp tác và cạnh tranh quốc tế ở phạm vi rộng hơn và sâu hơn.

  • Tiếp tục tập trung chỉnh đốn và quy phạm hóa trật tự kinh tế thị trường: đây là yêu cầu bức thiết của việc kích cầu trong nước, thúc đẩy nền kinh tế phát triển ổn định, là một chọn lựa tất yếu khi gia nhập WTO, và cũng là biện pháp quan trọng trong việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN.
  • Thực thi chiến lược chấn hưng quốc gia bằng khoa học kỹ thuật và chiến lược phát triển bền vững, tăng cường xây dựng văn minh tinh thần, đẩy m ạnh tiến bộ và sáng tạo trong khoa học kỹ thuật. Đẩy nhanh việc xây dựng hệ thống sáng tạo quốc gia. Tăng cường nghiên cứu cơ sở và ngiên cứu những công nghệ mới, hiện đại có ý nghĩa chiến lược, tăng cường năng lực tự chủ sáng tạo, đẩy nhanh việc ứng dụng những thành quả kỹ thuật mới vào thực tiễn.
  • Chuyển biến hơn nữa chức năng của chính phủ, tăng cường xây dựng tác phong làm việc: Nhằm thích ứng tình hình mới sau cải cách mở cửa, cần xây dựng một bộ máy liêm khiết, làm việc có hiệu quả. Tập trung làm tốt ba mặt : Đẩy nhanh chuyển biến về chức năng của chính phủ, tăng cường thiết thực việc xây dựng tác phong làm việc, kiên quyết phản đối xa xỉ lãng phí.

3.3. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ CUỘC CẢI CÁCH – MỞ CỬA CỦA TRUNG QUỐC ĐỐI VỚI VIỆT NAM

Như bên trên đã nói, Trung Quốc không phải là nước duy nhất thực hiện cải cách kinh tế, xoá bỏ thể chế kinh tế kế hoạch tập trung cũ, song nước này đã gặt hái được nhiều thành công khiến cho các nước khác phải ngưỡng mộ. . Ngay từ những ngày đầu, cải cách của Trung quốc đã cải thiện về kinh tế và cuộc sống cho nhân dân, và cho đến nay vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng cao”. Vì sao lại như vậy, và có thể rút ra được những bài học gì từ “cuộc cách mạng thứ hai” này của người Trung Quốc

1. Cải cách toàn diện, song phải coi cải cách thể chế kinh tế là trọng điểm

Ngay từ đầu, Trung Quốc đã chủ trương cải cách toàn điện. Nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình, người được coi là kiến trúc sư của công cuộc cải cách của Trung Quốc nói:

27

“Cải cách là toàn diện, bao gồm cải cách thể chế kinh tế, cải cách thể chế chính trị và cải cách các lĩnh vực tương ứng khác”. Trung Quốc tuy chủ trương cải cách toàn diện, song khi thực hiện phải có trọng điểm để tập trung sức lực. Trọng điểm chính là cải cách thể chế kinh tế. Sở dĩ Trung Quốc cải cách thành công vì trong khi cải cách tất cả các lĩnh vực, họ đã kiên trì coi cải cách kinh tế làm trọng điểm. Một số quốc gia khác cải cách thất bại, bởi vì cải cách kinh tế chưa có kết quả gì rõ rệt, đã vội vã chuyển trọng điểm sang lĩnh vực khác, làm cho chính trị không ổn định, mà cải cách kinh tế cũng bị buông lỏng, kết quả là cả kinh tế lẫn chính trị đều bị rối loạn.

2. Kiên trì về lựa chọn thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa thay thế cho thể chế kinh tế kế hoạch truyền thống.

Thực hiện cải cách – mở cửa, những người lãnh đạo Trung Quốc đã lựa chọn thể chế kinh tế thị trường, nền kinh tế được thúc đẩy và phồn vinh, được nhân dân tiếp nhận. Quá trình lựa chọn và tiếp nhận thể chế kinh tế thị trường ở Trung Quốc có thể chia làm 4 giai đoạn:

  • Từ năm 1979 đến năm 1984 là thời kỳ thể hiện sự quay lại tôn trọng quy – luật giá trị, mở rộng tác dụng của cơ chế thị trường. Các biện pháp cải cách áp dụng đầu tiên ở nông thôn đã khiến nông nghiệp nhanh chóng phục hồi và phát triển, tạo ra sức thuyết phục để đông đảo người dân tiếp nhận cuộc cải cách theo hướng thị trường
  • Năm 1984, Hội nghị Trung ương 3 khoá XII xác nhận kinh tế XHCN là kinh tế hàng hoá có kế hoạch. Nhận thức của mọi người đã được nâng lên, hiểu rõ hơn về vấn đề phát triển

kinh tế hàng hoá là giai đoạn không thể bỏ qua.

  • Năm 1987, Đại hội ĐCS Trung Quốc lần thứ XITI đưa ra mô hình “Nhà nước điều tiết thị trường, thị trường dẫn dắt xí nghiệp” đã làm nổi bật tác dụng của thị trường và có thể coi đó là giai đoạn quá độ từ thuyết kinh tế hàng hoá XHCN sang thuyết kinh tế thị trường XHCN.

3. Kiên trì sách lược cải cách kiểu tiến dần từng bước.

Ngay tứ khi mới bắt đầu cải cách, Trung Quốc đã xác định không dùng phương án cải cách kiểu “bùng nổ”, mà đã kiên trì phương án “dò đá qua sông”, áp dụng phương châm trước dễ sau khó, tiến dần từng bước, giảm bớt rủi ro. Thực tiễn chứng minh cách làm này là phù hợp với Trung Quốc, mang lại kết quả rõ rệt, tránh được những va chạm xã hội lớn và sự phân hoá hai cực quá nhanh như đã xẩy ra ở Liên Xô cũ và các nước Đông âu do thực hiện “liệu pháp sốc” Cải cách kiểu tiến dần phải trả giá nhất định như thời gian cải cách tương đối dài,

28

tác đụng tiêu cực của thể chế cũ kéo dai dẳng, song cuộc cải cách được thúc đẩy trong điều kiện xã hội tương đối ổn định, tuyệt đại đa số nhân dân được hưởng lợi ích của cải cách.

Cải cách theo phương thức tiến dần của Trung Quốc thể hiện ở mấy phương diện quan trọng sau:

  • Sau khi cải cách ở nông thôn thu được những kết quả thực tế mới mở rộng ra thành phố, đến năm 1984 cuộc cải cách mới lấy thành phố làm trung tâm.
  • Ra sức thúc đẩy sự phát triển kinh tế không thuộc sở hữu Nhà nước, biến nó thành động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế 20 năm qua; sau đó thực hiện có trọng điểm

cuộc cải tổ chiến lược khu vực kinh tế Nhà nước và cải cách các xí nghiệp Nhà nước.

  • Trong việc xây dựng hệ thống thị trường, thì trước hết phát triển thị trường hàng hoá tiêu dùng rồi đến hàng hoá tư liệu sản xuất, sau đó mới chú ý phát triển thị trường các yếu tố sản xuất như thị trường vốn, sức lao động, kỹ thuật, thông tin v.v..
  • Cải cách giá cả, được coi là mấu chốt, quan hệ đến sự thành bại của toàn bộ cải cách thể chế kinh tế, vì vậy đã được tiến hành rất thận trọng, kết hợp giữa điều chỉnh và thả lỏng, điều chỉnh trước, thả lỏng sau, sau đó mới gắn với giá cả của thị trường quốc tế. Trong nền kinh tế kế hoạch, mọi sản phẩm đều không được thể hiện chính xác giá cả của nó; cuộc cải cách giá trước hết thực hiện thị trường hoá giá cả các hàng hoá hiện vật và các dịch vụ, rồi dần dần thực hiện thị trường hoá giá các yếu tố sản xuất
  • Về kế hoạch hoá các khâu sản xuất, lưu thông, giá cả…, thì trước hết cho phép một phần tồn tại ngoài kế hoạch, rồi dần dần mở rộng ra; phần theo kế hoạch thì thu hẹp lại dần. Khi điều kiện đã chín muồi thì thực hiện sự điều tiết của thị trường. Việc từng bước hợp nhất chế độ hai giá của tư liệu sản xuất là ví dụ nổi bật về sự quá độ yên ổn từ thể chế cũ sang thể chế mới một cách tiệm tiến
  • Trong mở cửa đối ngoại, mở đầu là xây dựng các đặc khu kinh tế, các thành phố ven biển, sau đó dần dần mở cửa sâu vào nội địa, và đến nay mới hình thành cục diện mở cửa ra mọi hướng, mọi cấp độ.

4. Xử lý đúng đắn quan hệ biện chứng giữa cải cách, phát triển và ổn định.

Một trong những nguyên nhân quan trọng khiến cải cách của Trung Quốc tương đối thành công là trong tiến trình cải cách đã coi trọng và xử lý đúng đắn quan hệ giữa cải cách, phát triển và ổn định. Kinh nghiệm 30 năm phát triển kinh tế của Trung Quốc cho thấy, muốn xử lý đúng đắn ba mặt trên, người Trung Quốc đã chú trọng mấy điểm sau: Trước hết, phải duy trì được tốc đã phát triển kinh tế thích hợp. Nhiều học giả cho rằng kinh tế Trung Quốc

29

hiện đang ở giai đoạn cất cánh, cần tăng trưởng với tốc độ cao, nhưng không thể quá cao. Bởi vì hiện nay nền kinh tế của Trung Quốc vẫn theo phương thức tăng trưởng theo chiều rộng là chính, vẫn phải dựa vào đầu tư; nếu đòi hỏi tăng trưởng cao, sẽ xuất hiện cơn sốt đầu tư, lạm phát tăng, vật giá leo thang, ảnh hưởng đến ổn định kinh tế. Điều đó đã diễn ra vào các năm 1992, 1993. Để hạ sốt, giảm lạm phát, ắt sẽ phải xiết chặt tiền tệ, hạ nhanh tốc độ tăng trưởng, làm cho nền kinh tế bị dao động lớn, gây mất ổn định. Cũng không thể duy trì tốc độ phát triển quá thấp, vì sẽ không có lợi cho vấn đề việc làm, vấn đề thua lỗ của các xí nghiệp Nhà nước, vấn đề thu nhập tài chính. Các học giả Trung Quốc cho rằng tốc độ phát triển kinh tế hàng năm 8 – 9% là thích hợp với đất nước này

Thứ hai, phải giữ cho mức độ tăng hàng năm của vật giá bán lẻ ở mức được 10%. Tình hình Trung Quốc một số năm cho thấy, một khi giá cả tăng trên 10% là nhân dân đã kêu ca, bất bình, là có tới 20% cư dân ở thành phố bị hạ thấp thu nhập, do đó ảnh hưởng đến sự ổn định kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, nếu giá cả xuống thấp quá cũng không phải là điềm lành, nó chứng tỏ nền kinh tế đã bị ép giảm quá mức độ, hàng hoá đã thừa, sản xuất sút kém, không có lợi cho sự hoạt động bình thường của nền kinh tế và sự linh hoạt của thị trường

Thứ ba, việc thực hiện các biện pháp cải cách cần tính toán đầy đủ đến sự ổn định về tiêu dùng của người dân. Có rất nhiều lĩnh vực cần cải cách có liên quan trực tiếp đến cuộc sống của người dân như vấn đề nhà ở, chữa bệnh, bảo hiểm, dưỡng lão, giáo dục, lao động tiền lương… Thực hiện những cải cách này, đặc biệt là thực hiện dồn dập rất để vượt quá sức chịu đựng của người dân, làm cho họ không dám tiêu dùng hoặc tiêu dùng ít, dẫn đến chỗ thị trường tiêu điều, ảnh hưởng đến sản xuất và tiêu thụ hàng hoá.

Thứ tư, giữ vững chủ trương cùng giầu có, đề phòng và giảm bớt mức chênh lệch quá lớn giữa các cá nhân, các đơn vị, các địa phương. Từ khi cải cách, giữa các tầng lớp dân cư và các địa phương, giữa thành thị và nông thôn đều có hiện tượng chênh lệch thu nhập tăng lên, vấn đề phân phối không công bằng ngày càng bộc lộ và nổi cộm. Chính sách của Chính phủ Trung Quốc luôn luôn theo hướng thu nhỏ khoảng cách chênh lệch. Biện pháp đánh thuế thu nhập, kết nghĩa giữa tỉnh giàu với tỉnh nghèo, trích ngân sách để xoá đói giảm nghèo…. đã có

tác dụng tất trong việc giữ gìn ổn định và xã hội.

5. Kết hợp chặt chẽ giữa cải cách trong nước với mở cửa ra thế giới.

Trung Quốc coi cải cách và mở cửa là hai mặt của một chỉnh thể. Sự kết hợp giữa hai mặt này là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến thành công của cải cách

Một thời kỳ dài trước đây, Trung Quốc đã thực hiện bế quan toả quốc, hậu quả là không thành công trong việc hiện đại hoá kinh tế, trì trệ lạc hậu kéo dài, không tiếp thu được thành

30

quả văn minh của loài người, không tận dụng được nguồn vốn bên ngoài, không tham gia được vào sự hợp tác và cạnh tranh quốc tế. Rút bài học cay đắng đó, từ thập kỷ 80 Trung Quốc thay đổi cách nghĩ, nhận thức lại là CNXH phải tiếp thu mọi thành quả văn m inh của nhân loại, đặc biệt là của các nước phát triển phương Tây; CNTB là một giai đoạn lịch sử vô cùng quan trọng của tiến trình phát triển lịch sử của loài người, nền văn minh vật chất và văn minh tinh thần mà nó sáng tạo ra trong mấy trăm năm vượt qua tất cả những gì mà loài người đã tạo ra trước đó. Trung Quốc xây dựng CNXH trên cơ sở kinh tế văn hoá lạc hậu, càng phải thực hiện mở cửa, tiếp thu thành quả văn minh của thế giới, do đó không những phải cải tạo thể chế cũ xây đựng thể chế mới, mà cỏn phải tiếp thu khoa học kỹ thuật tiên tiến và phương pháp quản lý kinh doanh của các nước tư bản phát triển. Trong quá trình đó, Trung Quốc đã có chọn lọc để không tiếp thu những mặt không tốt của các nước này.

Tóm lại, những bài học rút ra từ quá trình cải cách không chỉ giúp ích cho sự phát triển tiếp theo của Trung Quốc trên con đường tiến vào thế kỷ mới mà còn có giá trị tham khảo bổ ích cho các quốc gia đang có hướng phát triển tương tự.

Traloitructuyen.com cũng giúp giải đáp những vấn đề sau đây:

  • Bài Tiểu luận về Trung Quốc
  • Tiểu luận về văn hóa Trung Quốc
  • Tiểu luận về nền văn minh Trung Quốc
  • tiểu luận: những thành tựu của nền văn minh trung quốc
  • Tiểu luận văn học Trung Quốc
  • Tiêu luận về kiến trúc Trung Quốc
  • Tiểu luận về nền văn minh Trung Quốc cổ đại
  • Tiểu luận phát triển kinh tế Trung Quốc
See more articles in the category: Tiểu luận