Tiểu luận: CÁC QUY LUẬT cơ bản của tư DUY |Traloitructuyen.com

Or you want a quick look: Qui luật tư duy logic 

Traloitructuyen.com cũng giúp giải đáp những vấn đề sau đây:

  • Các quy luật tư duy
  • Bài tập về các quy luật logic
  • Các phát biểu sau đã vi phạm quy luật tư duy nào vì sao
  • Ý nghĩa của quy luật đồng nhất
  • Vi phạm luật cơ bản của tư duy
  • Quy luật đồng nhất đảm bảo cho tư duy có được tính chất gì
  • Ví dụ vi phạm luật cơ bản của tư duy
  • Ví dụ về quy luật triệt tam
 
 
 
 
 
 
 
Tiểu luận: CÁC QUY LUẬT cơ bản của tư DUY

Tiểu luận: CÁC QUY LUẬT cơ bản của tư DUY

Qui luật tư duy logic 

Khái niệm

Qui luật tư duy logic trong tiếng Anh là The Law of Logical Thinking.

Qui luật là mối liên hệ bản chất, tất yếu và phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng hoặc giữa các mặt trong một sự vật hiện tượng của thế giới khách quan.

Tư duy logic cũng là một quá trình, trong đó các tư tưởng được liên kết với nhau theo những qui luật nhất định. Sự tuân thủ của tư duy theo những qui luật vốn có của nó là điều kiện cần để đảm bảo tính chân lí khách quan của sự nhận thức.

Vậy, qui luật tư duy logic là những mối liên hệ bản chất, tất yếu và phổ biến giữa các hình thức tạo nên kết cấu logic bên trong của quá trình tư duy, kết cấu này đã được hình thành trong lịch sử trên cơ sở những mối liên hệ khách quan giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới bên ngoài.

Đặc điểm của qui luật tư duy logic

- Cũng như mọi qui luật của tự nhiên và xã hội, qui luật tư duy mang tính khách quan. Con người không thể tự ý tạo ra thay đổi nó mà chỉ phát hiện ra chúng. Đồng thời, qui luật của tư duy cũng hình thành một cách thích ứng với những qui luật của thế giới khách quan, do qui luật của thế giới khách quan qui định.

- Thừa nhận tính khách quan của các qui luật tư duy cho phép chúng ta nghiên cứu nó như hiện tượng tồn tại tương đối độc lập, thấy rõ được vai trò của tư duy đúng đắn trong việc nhận thức các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan.

Trong cuộc sống hàng ngày, các qui luật của tư duy được lặp đi lặp lại nhiều lần, qua kinh nghiệm cuộc sống con người chấp nhận tính hiển nhiên của nó, không cần phải chứng minh khi đề cập nó. Do vậy, các quy luật tư duy được quan niệm như những tiên đề khi vận dụng nó trong quá trình tư duy.

- Qui luật của tư duy được thể hiện trong mọi quá trình tư duy, trong mọi lĩnh vực của sự nhận thức khoa học và bắt buộc phải tuân thủ trong bất kì trình độ nào của tư duy.

Nếu không tuân thủ các qui luật, kết cấu nội tại của tư duy thì tư duy sẽ bị phá vỡ, tính chân thực logic của tư duy bị vi phạm, khi đó tư duy sẽ không làm được chức năng phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan. Như vậy, các qui luật tư duy tồn tại một cách phổ biến trong mọi quá trình tư duy.

- Mặc dù tồn tại một cách phổ biến nhưng các qui luật tư duy cũng chỉ mang tính chất tương đối và có giới hạn trong phạm vi nhất định. Bởi vì, các qui luật tư duy chỉ phản ánh trạng thái ổn định tương đối của các sự vật, hiện tượng nên nó chỉ đúng trong giới hạn không gian và thời gian, trong hệ qui chiếu nhất định.

Do đó, việc tuân thủ các qui luật của tư duy là rất cần thiết, rất quan trọng nhưng chưa đủ để đảm bảo tính chân lí khách quan của sự nhận thức, cần phải được bổ sung bằng các phương pháp khác nhau.

Các qui luật cơ bản của tư duy logic

- Qui luật đồng nhất: Nội dung qui luật là mỗi tư tưởng đúng đắn hay khái niệm về một đối tượng nào đó phải rõ ràng và giữ nguyên nghĩa của nó trong suốt quá trình tư duy.

Qui luật đồng nhất đòi hỏi trong suốt quá trình tư duy luôn luôn giữ nguyên nội hàm của khái niệm, phải xác định đúng và giữ nguyên đối tượng, không được lẫn lộn, tự ý thay đổi, đánh tráo đối tượng.

- Qui luật phi mẫu thuẫn (còn gọi là qui luật mâu thuẫn): Khi xem xét cùng một đối tượng trong cùng thời gian, cùng mối quan hệ thì hai ý kiến đối lập nhau không thể cùng đúng mà phải xảy ra một trong hai ý kiến đó sai.

- Qui luật bài trung: Nếu có hai ý kiến mâu thuẫn nhau về cùng một sự vật hiện tượng xét trong cùng thời điểm thì cả hai ý kiến đó không thể cùng sai, nghĩa là một trong hai ý kiến đó đúng và ý kiến kia sai, không thể có ý kiến trung gian.

Tuy nhiên, qui luật bài trung chỉ có ý nghĩa tương đối bởi vì ta chỉ xét tư duy của chúng ta phản ánh đối tượng trong một giới hạn nhất định. Đó là trạng thái ổn định tương đối của sự vật mà không tính đến sự biến đổi và phát triển của nó như trong logic biện chứng.

- Qui luật lí do đầy đủ: qui luật này nói lên rằng: mọi tư tưởng đáng tin cậy đều phải có tư tưởng khác đã được chứng minh hoặc là đúng hoặc quá rõ ràng làm căn cứ.

Qui luật lí do đầy đủ yêu cầu: Không một tư tưởng nào được thừa nhận là chân lí mà không có căn cứ, những lí do dùng để chứng minh cho luận điểm nào đó là chân thực, phải là cái đã được xác nhận là chân thực và phải có quan hệ tất yếu với luận điểm cần phải chứng minh.

Tiểu luận 

CHƯƠNG I: CÁC QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA TƯ DUY


Lời mở đầu


Trong quá trình tồn tại của mình , con người luôn khát vọng hiểu biết vè tự nhiên và xã hội . Do vậy, nhận thức hiện thực khách quan là một nhu cầu tất yếu của con người. Nhưng làm thế nào con người có thể nhận thức đúng đắn hiện thực khách quan, tìm ra chân lý và hành động có hiệu quả tốt ?
Nhận thức đúng giúp là điều kiện cần giúp con người hành động đúng, đạt được hiệu quả mong muốn. Ngược lại, nhận thức sai, không nắm bắt được bản chất và quy luật của hiện thực khách quan thì con người sẽ hành động phiêu lưu, mạo hiểm, dễ đi đến thất bại.
Đầu tiên,ta xét các ví dụ suy luận :
Mọi người đều phải chết,Socrate là người ,Socrate phải chết ‘’
(1) ‘’ Vợ tôi là đàn bà, em là đàn bà ,vậy em là vợ tôi ‘’
(2) Rõ ràng suy luận thứ nhất đúng ,còn suy luận thứ haithì sai .
Nhưng căn cứ vào cơ sở nào mà ta xác định được như vậy ? Tất nhiên là có thể căn cứ trực tiếp vào thực tiễn .Tuy nhiên, thực hiện việc đó gặp rất nhiều khó khăn , vì ở đây sau khi kiểm tra kết luận đúng ta cũng không thể nói rằng suy luận đúng . Một phương pháp khác thuận tiện và hiệu quả hơn nhiều là sử dụng các quy luật của tư duy, tức là các quy luật mà môn logic nghiên cứu, để làm cơ sở cho việc xét đoán. Suy luận nào tuân theo quy luật đó thì hợp lý,đúng ; suy luận nào không tuân theo những quy luật đó thì vô lý, sai. Như chúng ta đã biết , quy luật của tư duy là những mối liên hệ bên trong, bản chất, lặp đi lặp lại trong các quá trình tư duy. Các quy luật của tư duy là sự phản ánh các quy luật của hiện thực khách quan vào tư duy . Chính vì vậy mà chúng giúp chúng ta nghiên cứu , nhận
thức được thế giới khách quan . Con người phát hiện ra các quy luật của tư duy trong hoạt động nhận thức thực tiễn của mình ‘’ Hoạt động thực tiễn của con người phải làm cho ý thức của con người lặp đi lặp lại hàng nghìn triệu lần những logic khác nhau , để cho những hình tượng này có thể có được ý nghĩa những công lý ‘’. Các quy luật của tư duy này là một đề tài phong phú , mang lại nhiều kiến thức bổ ích từ thực tiễn cuộc sống nên em chọn đề tài này để có thể tham khảo,tìm hiểu, học tập, nghiên cứu những nguồn kiến thức mới, trau dồi kỹ năng tư duy để phát triển những mặt kiến thức của bản thân.
Trong số các quy luật của tư duy có bốn quy luật cơ bản. Các quy luật này được gọi là quy luật cơ bản vì : thứ nhất , chúng phản ánh những tính chất cơ bản nhất của quá trình tư duy ; thứ hai , vì bất cứ
quá trình tư duy nào cũng phải tuân theo chúng ; thứ ba , vì các quy luật khác có thể rút ra từ chúng , nhưng không thể rút ra chúng từ các quy luật khác. Các quy luật cơ bản đó là : quy luật đồng nhất , quy luật không mâu thuẫn , quy luật bài trùng và quy luật lý do đầy đủ .

I. QUY LUẬT ĐỒNG NHẤT :

1.1 Cơ sở khách quan của quy luật :

Tư duy là một quá trình phản ánh thế giới khách quan . Để phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan , tư duy phải đồng nhất với sự vật hiện tượng trong một thời điểm nào đó , trong một hoàn cảnh cụ thể
nào đó. Cơ sở khách quan của quy luật đồng nhất là tính ổn định tương đối của sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan. Phát biểu : A là A . Một tư tưởng , khi đã định hình , phải luôn là nó trong quá trình tư duy.
Quy luật này phản ánh tính ổn định , xác định của tư duy . Điều này có nghĩa là , trong quá trình hình thành của mình , một tư tưởng ( khái niệm , phán đoán , lý thuyết , giả thuyết ,… ) có thể thay đổi ,
nhưng khi đã hình thành xong thì không được thay đổi nữa. Nếu nó vẫn tiếp tục thay đổi thì logic hình thức sẽ coi nó là tư tưởng khác.
Tính ổn định như vậy là điều kiện cần cho mọi quá trình tư duy . Mặc dù tư tưởng – cũng như mọi sự vật và hiện tượng khác luôn luôn vận động và biến đổi , nhưng nếu tuyệt đối hóa mặt biến đổi đó của tư
tưởng thì không thể nào tư duy được . Một ý kiến được nói ra phải có nội dung không đổi ít nhất là trong cùng một quá trình tranh luận , trình bày ý kiến ,chứng minh quan điểm ,… nghĩa là một quá trình tư duy , thì người ta mới có thể căn cứ vào nó để xét đúng sai , hợp lý hay bất hợp lý ,…


1.2 Nội dung :

Mọi tư tưởng phản ánh cùng một đối tượng , trong cùng một quan hệ thì phải đồng nhất với chính nó . Trong quá trình suy nghĩ , lập luận , mọi tư tưởng phải đồng nhất với chính nó .


1.3 Yêu cầu và các lỗi logic thường gặp :

Yêu cầu 1 :
Trong quá trình lập luận , một khái niệm , một phán đoán , một suy luận nào đó phải được dùng theo cùng một nghĩa , luận đề phải được giữ nguyên , không được thay đổi đối tượng của tư duy một cách
vô căn cứ không được thay đổi nội hàm và ngoại diên của khái niệm đã xác định . Nếu một tư tưởng xuất hiện nhiều lần trong một quá trình tư duy thì tất cả những lần xuất hiện đó nó phải có cùng một nội
dung, phải có giá trị chân lý như nhau. Điều này có nghĩa là ở các quá trình tư duy khác nhau ta có thể dùng từ với nhiều nghĩa khác nhau, tư tưởng có thể có những giá trị chân lý khác nhau, nhưng trong cùng một quá trình suy luận thì từ ngữ bao giờ cũng được dùng với một nghĩa duy nhất, tư tưởng phải có cùng một nội dung duy nhất, phải có cùng một giá trị chân lý duy nhất. Vi phạm yêu cầu này, tư duy sẽ không nhất quán, lẫn lộn và người khác sẽ không hiểu .
+ Không được đánh tráo nội dung của tư tưởng: trong quá trình tư duy, lập luận không được thay đổi nội dung tư tưởng (cùng các điều kiện tạo thành ND đó) đã được xác định từ đầu, không được thay đổi
đối tượng của tư tưởng này bằng đối tượng của tư tưởng khác.
VD: “Khi thấy sứ thần dâng cho chúa Trịnh một mâm đào trường thọ, Tràng Quỳnh bèn chạy tới lấy một quả ăn ngay. Chúa cho Quỳnh đã phạm tội khi quân bèn sai người lôi ra chém. Trạng nói:“Chém thần cũng được nhưng phải chém thằng dâng đào trước đã. Nó bảo đòn trường thọ sao thần vừa ăn đã chết? Đây phải gọi là đào đoản thọ mới đúng”. Chúa nghe vậy liền bật cười tha tội”. Ở đây, Trạng Quỳnh đã cố tình vi phạm quy luật đồng nhất để thoát chết bằng cách đánh tráo nội dung của k/n “chết do phạm tội” với k/n “chết sinh học”.
+ Không được đánh tráo ngôn ngữ diễn đạt tư tưởng: trong biểu đạt không được ý nọ lời kia, nếu khi chọn từ, chọn câu để diễn đạt mà lại không trình bày đúng ý tưởng, đúng đối tượng phải trifng bày tức
là đã vi phjm luật đồng nhất.
VD : “Trong buổi dạ hôi, Puskin mời một tiểu thư khiêu vũ.
Nàng tiểu thư thấy Puskin vừa đen vừa gầy bèn kênh kiệu nói:”Xin lỗi, tôi không nhảy cùng với một đứa bé.” Putskin muốn sửa tính kiêu ngạo của cô nàng bèn nói to:“Xin lỗi, tôi không biết là tiểu thư đang
mang thai”. Mọi người nghe vậy liền đều cười ồ lên khiến cô nàng tiểu thư xấu hổ đỏ mặt. Ta thấy, ở đây, Putskin đã đánh tráo ngôn ngữ diễn đạt của cô gái “đứa bé” bằng “mang thai”.
+ Ý nghĩa, tư duy tái tạo phải đồng nhất với ý nghĩa, tư duy nguyên mẫu: khi nhắc lại, tái tạo một tư tưởng nào đó thì phải nhắc lại, tái tạo chính xác tư tưởng đó, không được sai lạc ND của ý nghĩa,
tư tưởng nguyên mẫu.
VD:“Cô giáo: hai lần chín là bao nhiêu? Học sinh: Hai lần chín là nhừ ạ.”.

Lỗi logic thường gặp :

Ngụy biện : Nhằm giành phần thắng trong các cuộc tranh luận , bằng cách lấy hiện tượng thay cho bản chất , chuyển cái không có cơ bản thành cái cơ bản một cách cố ý , đánh tráo khái niệm …
Ví dụ 1 :
Lý sự của một thầy lang Một đứa trẻ sốt dữ lắm . Thầy lang bốc thuốc cho uống . Nó lắn đùng ra chết . Bố nó đến tận nhà bắt đền . Thầy không tin , đến xem lại , sờ trán thằng bé , rồi bảo :
- Thế này còn trách tôi ư ? Ông bảo chữa cho nó khỏi nóng , bây giờ nó lạnh như thế này , còn phải chữa gì nữa ?
Ví dụ 2 :
Một ông khách trách ông thợ may :
- Ông chủ ! Ông máy thế nào mà quần tôi cụt thế này ?
Người thợ thản nhiên trả lời :
- Thưa ông , không phải lỗi chúng tôi đâu . Khi ông đưa vải đến may , chúng tôi đã đo cẩn thận . Chân ông mới dài ra đấy ạ !
Ví dụ 3 :
Tại sao tôi không bỏ được bia, rượu? Đã rất nhiều lần tôi muốn bỏ rượu và bia, nhưng tôi lại cảm thấy xấu hổ. Mỗi lần nhìn ly bia, tôi lại nghĩ về những người công nhân cực khổ đã làm ra nó. Họ đều có vợ con phải chăm sóc, con cái họ đều có những giấc mơ phải thực hiện. Nếu tôi không uống, có thể họ sẽ mất việc và những giấc mơ của con họ sẽ mãi tan biến. Tôi không thể ích kỷ chỉ lo cho sức khỏe của
mình. Tôi uống để biến giấc mơ của rất nhiều người thành sự thật. Đừng vì lợi ích của mình mà làm ảnh hưởng đến những người khác .

Ngộ biện : Do thiếu tri thức nên không hiểu bản chất của sự vật hiện tượng.
Ví dụ 1 :
Thuyết ‘’ Địa tâm’’ trước đây quan niệm Mặt trời quanh xung quanh Trái Đất . Nhận thức này sai lầm do con người chưa có phương tiện quan sát sự chuyển động của các hành tinh , chỉ dựa vào việc hàng ngày quan sát thấy Mặt trời xuất hiện ở hướng Đông và biến mất ở hướng Tây .
Ví dụ 2 :
Do quan sát thấy tiếng Sấm bao giờ cũng được nghe sau khi có tia chớp lóe sáng , người ta kết luận tia chớp là nguyên nhân của tiếng Sấm . Thực ra đó là hai biểu hiện về ánh sang và âm thanh của cùng
một hiện tượng tự nhiên phóng điện tích trái dấu giữa các đám mây , vì ánh sang lan truyền với tốc độ lớn hơn rất nhiều so với tốc độ âm thanh , nên ta thấy tia chớp trước khi nghe thấy tiếng Sấm . Tóm lại , mỗi tư tưởng trong một lập luận cần phải bảo toàn một nội dung xác định . Nói cách khác , luật đồng nhất đòi hỏi trong một lập luận về đối tượng nào đó với nội dung xác định các dấu hiệu của nó thì con người phải xoay quanh chính đối tượng ấy với chính nội dung các thuộc tính của nó , chỉ có như vậy thì tư duy con người mới làm rõ được các đặc tính của đối tượng và sự khác biệt của nó với các
đối tượng khác . Mặc dù các đối tượng của hiện thực không phải nằm trong sự đồng nhất trừu tượng , không vận động , biến đổi gì cả . Và vì vậy mà luật đồng nhất không thể mang gán cho tồn tại khách quan ngoài tư duy . Nhưng cần phải thấy rằng , khi đối tượng còn đang ở một trạng thái về chất , trong khi nó chưa thay đổi các thuộc tính , các dấu hiệu cơ bản của mình trong quá trình phát triển , thì con người cần phải suy ngẫm về chính đối tượng ấy với tất cả thuộc tính vốn có của nó .
Yêu cầu 2 :
Phải có sự đồng nhất giữa tư tưởng với ngôn ngữ diễn đạt nó do sử dụng các từ đa nghĩa , từ không rõ nghĩa hoặc sử dụng cấu trúc ngữ pháp sai . Những từ ngữ khác nhau nhưng có nội dung như nhau,
những tư tưởng tương đương với nhau về mặt logic, nghĩa là bao giờ cũng có giá trị chân lý như nhau, phải được đồng nhất với nhau trong quá trình suy luận. Vi phạm yêu cầu này, ta không rút ra được thông tin cần thiết.
Ví dụ 1:
Người ta cho biết rằng, tác giả Truyện Kiều là người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, và hỏi quê quán của nhà thơ Nguyễn Du. Nếu ta không đồng nhất nhà thơ Nguyễn Du với tác giả
Truyện Kiều thì ta không trả lời được cho câu hỏi này. Ta cũng không thể suy luận được. Đây là những yêu cầu dành cho quá trình tư duy, những yêu cầu này bắt buộc phải tuân theo để tư tưởng được sáng tỏ, dễ hiểu. Nhưng trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta gặp rất nhiều trường hợp chúng bị vi phạm một cách vô tình hay cố ý.
Ví dụ 2:
Các trò chơi chữ là những vi phạm cố ý:
Bà già đi chợ Cầu Đông
Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng ?

READ  Tiểu luận: Lựa chọn địa điểm đầu tư khách sạn / Resort 4-5 sao

Thầy bói gieo quẻ nói rằng:
Lợi thì có lợi, nhưng răng chẳng còn.
Ở đây, cùng một chữ “lợi” nhưng được hiểu theo hai nghĩa khác nhau
Ví dụ 3 :
 Sử dụng từ đa nghĩa : Vợ cả , vợ hai . Cả hai đều là vợ cả .

 Sử dụng từ không rõ nghĩa : Công an bắt bọn cướp giật bằng xe máy .
 Sử dụng sai cấu trúc ngữ pháp : Uống Kremil – S hết đau bụng , đầy hơi, dễ tiêu.
Yêu cầu của quy luật này rất đơn giản. Tuy nhiên, để tuân thủ yêu cầu này không phải là dễ. Đồng nhất những cái gì và không đồng nhất những cái gì là dựa vào sự hiểu biết, dựa vào trình độ văn hóa
của chủ thể tư duy, và dựa vào bối cảnh tư duy. Bởi vì, xét cho cùng, quy luật này đòi hỏi phải đồng nhất những thứ không đồng nhất.
Chính điều này giải thích tại sao khi nghe một câu chuyện vui thì nhiều người bật cười nhưng một số người khác thì không. Người ta cười vì đã đồng nhất được những cái mà người kể muốn đồng nhất,
còn nếu không làm được điều đó thì người ta không cười. Như trong ví dụ sau đây:

Lớp đang học về truyền thuyết Mỵ Châu - Trọng Thủy, Cu Tèo ngủ gật.
Thấy vậy, thầy giáo hỏi:
“Tèo, ai đã lấy cắp nỏ của An Dương Vương ?”.

Giật mình, Cu Tèo vội đáp: “Thưa thầy con không lấy, con không lấy, bạn nào lấy con không biết…”.
Thầy giáo chán nản, đem câu chuyện kể lại cho hiệu trưởng nghe.
Hiệu trưởng nghe xong, trầm ngâm một lúc rồi bảo: “Thôi được, chuyện đâu còn có đó, trẻ con ấy mà. Thầy xem thử cái nỏ đó giá bao nhiêu để trường bỏ tiền ra mua một cái khác thay thế. Rõ khổ, đồ dùng
dạy học thì đang thiếu tứ bề!”.
Câu chuyện được đem kể lại ở sở giáo dục và đào tạo. Những người có mặt bò lăn ra cười, chỉ một người không cười, đó là kế toán trưởng. Mọi người ngạc nhiên nhìn bà ta, bà ta nói:
“Tôi mà là giám đốc sở thì tôi sẽ cách chức tay hiệu trưởng đó. Tiền đâu ra mà cái gì cũng chi, cái gì cũng chi như vậy?…” (Theo báo “Người lao động”)
Quy luật đồng nhất là quy luật của tư duy hình thức, không nên nhầm lẫn rằng đây là quy luật của hiện thực khách quan bên ngoài tư duy.Quy luật đồng nhất, vì vậy, không dẫn đến việc phủ định nguyên
lý biện chứng là sự vật và hiện tượng luôn luôn vận động và biến đổi, trong cùng một thời điểm một sự vật vừa chính là nó vừa không phải là nó. Tư duy hình thức phản ánh hiện thực khách quan một cách lý
tưởng , phản ánh hiện thực khách quan trong sự đứng im tương đối của nó, bỏ qua sự vận động và biến đổi của nó, phản ánh các sự vật và hiện tượng trong sự tách rời ra khỏi các sự vật và hiện tượng khác. Một sự vật của hiện thực khách quan có thể được tư duy phản ánh từ nhiều góc độ khác nhau, tạo nên những đối tượng khác nhau trong tư duy. Nếu hai sự vật trong hiện thực khách quan A và B có chung một tính chất nào đó thì tư duy có thể phản ánh tính chất chung đó ở hai sự vật đã nêu và tạo thành hai đối tượng khác nhau trong tư duy. Hai đối tượng này của tư duy đồng nhất với nhau.Chính vì vậy mà mặc dù trong hiện thực khách quan không hề có hai sự vật hoàn toàn giống nhau, nhưng ta vẫn có thể đồng nhất chúng với nhau.Có thể làm như vậy là bởi ta chỉ đồng nhất chúng trong một mối quan hệ nhất định mà thôi.
Ví dụ :
Nguyễn Trãi và Nguyễn Du là hai người khác nhau, tuy nhiên, khi tư duy phản ánh các ông từ góc độ là nhà thơ thì tạo thành hai đối tượng đồng nhất với nhau trong tư duy.
Vì tư duy phản ánh hiện thực khách quan nên thông qua quy luật đồng nhất của tư duy ta có thể nói về ba loại đồng nhất khác nhau: đồng nhất tư tưởng với tư tưởng, đồng nhất tư tưởng với đối tượng trong hiện thực và đồng nhất đối tượng trong hiện thực với đối tượng trong hiện thực. Cần lưu ý rằng ở đây thông qua sự đồng nhất tư tưởng với tư tưởng ta mới có thể đồng nhất đối tượng trong hiện thực với đối tượng trong hiện thực. Điều này làm cho phạm vi ứng dụng của quy luật này được mở rộng hơn nhiều.
Ta xét vài ví dụ:
Ví dụ 1 :
Trước Tòa bà Minh nói “Tôi đồng ý bán nhà giúp con trả nợ” nhưng thư ký phiên tòa ghi “Tôi đồng ý bán nhà trả nợ giúp con”. Sai lầm này của thư ký phiên tòa đã làm cho việc thi hành án sau này gặp
nhiều khó khăn.
Ví dụ 2 :
Có diễn giả nói: “Hình như trên đời có luật bù trừ. Người ta bị mù một mắt thì mắt kia sẽ tinh hơn. Bị điếc một tai thì tai kia sẽ nghe rõ hơn, ....”. Nghe vậy, có thính giả kêu lên: “Rất đúng, tôi cũng thấy
rằng nếu một người cụt chân thì y như rằng chân kia sẽ dài hơn”. Câu nói này của anh ta làm cho cả thính phòng cười ồ lên. Anh ta đã không nhận thấy rằng khi diễn giả nói “…mắt kia sẽ tinh hơn”, “…tai kia sẽ nghe rõ hơn” là tác giả so sánh với mắt và tai bình thường, còn anh ta thì so sánh “chân kia” với chân cụt. Quy luật đồng nhất là quy luật vô cùng quan trọng của logic hình thức. Nếu như các quy luật khác có thể đúng trong một số hệ logic hình thức và không đúng trong một số hệ logic hình thức khác thì cho đến nay chưa ai xây dựng được hệ logic hình thức nào có giá trị mà trong đó quy luật đồng nhất không đúng
( Lấy từ tài liệu của Th.S Lê Duy Ninh )
Quy luật đồng nhất là quy luật vô cùng quan trọng của logic hình thức. Nếu như các quy luật khác có thể đúng trong một số hệ logic hình thức và không đúng trong một số hệ logic hình thức khác thì cho
đến nay chưa ai xây dựng được hệ logic hình thức nào có giá trị mà trong đó quy luật đồng nhất không đúng.


II. QUY LUẬT KHÔNG MÂU THUẪN :

2.1 Cơ sở khách quan của quy luật :

Trong thế giới khách quan , một sự vật hiện tượng bao giờ cũng mang tính cụ thể trong một quan hệ cụ thể , không thể có một sự vật vừa là nó vừa không là nó trong cùng một thời gian , một mối quan hệ.
Phát biểu: Hai phán đoán, nhận định mâu thuẫn nhau, trái ngược nhau không thể nào cùng đúng. Trong hai phán đoán, nhận định như vậy có ít nhất là một phán đoán, nhận định sai. Quy luật này phản ánh
tính chất không mâu thuẫn của quá trình tư duy. Mâu thuẫn phá vỡ quá trình tư duy nên trong tư duy nhất định phải tránh nó. Tư duy của chúng ta không được chứa mâu thuẫn vì tư duy phản ánh hiện thực khách quan, mà trong hiện thực khách quan thì ở mỗi thời điểm không thể có trường hợp một đối tượng vừa có, lại vừa không có một tính chất nhất định nào đó.
Ví dụ, tại một thời điểm, một bông hồng cụ thể không thể nào vừa có màu đỏ, vừa không có màu đỏ. Cần lưu ý rằng, mâu thuẫn mà chúng ta nói đến ở đây là mâu thuẫn hình thức, chứ không phải là mâu
thuẫn biện chứng. Mâu thuẫn hình thức không thể có được vì, như đã biết, logic hình thức nghiên cứu tư duy với tư cách là sự phản ánh các sự vật và hiện tượng của hiện thực khách quan trong sự đứng im của nó, nghĩa là phản ánh hiện thực khách quan theo kiểu lý tưởng hóa .


2.2 Nội dung của quy luật :

Công thức : (a là a ) hay ‘’ 7a là 7a’’
Trong quá trình lập luận không được khẳng định và phủ định một sự vật , hiện tượng nào đó trong cùng một thời gian và cùng một mối quan hệ .

Hoặc : hai phán đoán đối lập chung hoặc mâu thuẫn nhau về một đối tượng , được xét trong cùng một thời gian , một quan hệ không cùng chân thực , ít nhất một trong chúng giả dối .
Quy luật này áp dụng cho các cặp phán đoán sau :
 ‘’ S là P ‘’ và ‘’ S không là P ‘’

 ‘’ Mọi S là P ‘’ và ‘’ Mọi S không là P ‘’

 ‘’Mọi S không là P ‘’ và ‘’ Một số S là P ‘’

 ‘’Mọi S là P ‘’ và ‘’ Một số S không là P ‘’

2.3 Yêu cầu và các lỗi logic thường gặp :

Yêu cầu 1 :
Quy luật yêu cầu không được có mâu thuẫn trực tiếp trong tư duy tức là đối với cùng một đối tượng , trong cùng một thời gian , một mối quan hệ , không được lúc đầu khẳng định đối tượng có một dấu hiệu nào đó , sau đó lại phủ định chính dấu hiệu đã khẳng định trên .
+ Không được dung chứa mâu thuẫn logic trực tiếp trong tư duy khi phản ánh về đối tượng ở một phẩm chất xác định (với cùng số lượng, cùng thời gian và cùng mối quan hệ).
VD: Bố mẹ hỏi: Con ngủ chưa? Con: Con ngủ rồi.
+ Về một đối tượng nào đó, ta không được vừa khẳng định một điều gì đó về đối tượng sau đó lại phủ định những hệ quả được rut ra từ điều ta vừa khẳng định.
VD: Khi xưa, ở nước Sở có một người bán Mâu và Thuẫn. Người đó rao:“Mua đi, mua đi, Mâu của tôi rất tốt, nó có thể đâm thủng bất cứ vật gì. Mua đi, mua đi, Thuẫn của tôi rất tốt, không vật gì có thể đâm thủng được nó”. Thế là có người nói:“Ông thử lấy cái Mâu của ông đâm vào cái Thuẫn của ông đi, nếu đúng thì tôi mua.”
+ Về cùng một đối tượng, ta không được khẳng định cho chúng hai thuộc tính mà trong thực tế, hai thuộc tính đó lại loại trừ lẫn nhau.
VD: một khách bộ hành xin ngủ qua đêm tại nhà của Quỷ. Vợ chồng Quỷ rất mừng vì tưởng gặp may. Vợ chồng Quỷ sửa soạn bữa tối, mời khách bộ hành ăn cùng. Ngồi vào bàn, anh ta đưa tay lên miện thổi. “Ông làm gì vậy?” Quỷ vợ hỏi. “Trời lạnh cóng, ta thổi cho nó ấm lên”. Quỷ vợ dọn súp ra bàn, người khách ghé miệng vào đĩa thổi. “Ông làm gì vậy?” Quỷ cái lại hỏi. Khách trả lời:”Ta thổi
cho nó nguội đi”. Nghe vậy, Quỷ chồng hốt hoảng:“Ông ơi, xin ông đi đâu thì đi. Ngay cả bọn quỷ chúng tôi cũng không thể làm một cái thổi vừa nóng lên lại vừa lạnh đi”. Ta thấy, trong câu chuyện trên,
Quỷ đã lầm khi cho rằng con người làm được hai việc mâu thuẫn nhau vì nó đã đồng nhất hai hoạt động “thổi” ở hai thời điểm khác nhau trong hai mối quan hệ khác nhau (thôi-nóng tay/thổi-lạnh đĩa
súp)
Lỗi logic thường gặp :
Lúc đầu khẳng định sau đó phủ định ngay dấu hiệu đó ở cùng một đối tượng trong một thời điểm , một quan hệ cụ thể . Quá trình tư duy không được chứa mâu thuẫn trực tiếp. Cụ thể là không được cùng một lúc vừa khẳng định vừa phủ định một điều gì đó.
Ví dụ 1 : Không thể vừa khẳng định rằng Liên Minh Châu Âu sẽ có được bản hiến pháp của mình, lại vừa khẳng định rằng Liên Minh Châu Âu sẽ không thể thông qua được một bản hiến pháp như thế.
Trong thực tế đôi khi ta gặp những câu nói có vẻ như chứa mâu thuẫn trực tiếp nhưng vẫn thấy chấp nhận được.
Ví dụ 2 :
Câu “Giải vô địch bóng đá quốc gia V- leage vừa qua vừa đạt, vừa chưa đạt” nhìn bề ngoài như chứa mâu thuẫn trực tiếp, nhưng lại vẫn chấp nhận được. Vậy phải chăng ở đây ta đã bỏ qua yêu cầu của quy luật không mâu thuẫn? Thật ra thì trong trường hợp này yêu cầu của luật không mâu thuẫn vẫn được tôn trọng, vì từ “đạt” trong câu nói trên được hiểu theo nhiều cách khác nhau, và vì vậy ở đây không có mâu thuẫn. Nếu tiếp tục làm rõ ý kiến của mình thì người đưa ra câu nói đó sẽ giải thích đã đạt ở mặt nào và không đạt ở mặt nào (đó là các mặt khác nhau). Nghĩa là anh ta sẽ cho biết hiểu theo nghĩa nào thì chuyến tập huấn được coi là đạt và hiểu theo cách nào thì không đạt.
Yêu cầu 2 :
Quy luật yêu cầu không được có mâu thuẫn gián tiếp trong tư duy tức là đối với cùng một đối tượng , trong cùng một thời gian , một mối quan hệ , không được lúc đầu khẳng định đối tượng có một dấu hiệu nào đó , sau đó lại phủ định hệ quả tất yếu của chính dấu hiệu đã khẳng định trên .
Lỗi logic thường gặp :
Khẳng định một dấu hiệu nào đó nhưng lại phủ nhận hệ quả tất yếu của chính dấu hiệu đó .

Quá trình tư duy không được chứa mâu thuẫn gián tiếp. Cụ thể là không được khẳng định (hay phủ định) một vấn đề nào đó rồi lại phủ định (hay khẳng định) các hệ quả của nó. Ví dụ, nếu khẳng định rằng lý thuyết tương đối hẹp của Einstein là đúng thì không thể phủ nhận công thức E = mc2 thể hiện mối liên hệ giữa năng lượng và khối lượng của ông. Nếu như mâu thuẫn trực tiếp dễ được nhận thấy, và vì vậy dễ tránh, thì mâu thuẫn gián tiếp khó nhận thấy hơn, và vì vậy khó tránh hơn nhiều.
Ví dụ 1 : Lời nói của Đức Phật với quỷ Mala: “(…) Ta không cần danh vọng, Mala, mi hãy thuyết những điều đó với những kẻ hám danh vọng. (…) Thành đạt, danh tiếng, danh dự và vinh quang chỉ là sự hư
ảo, sự thắng lợi của kẻ này là thất bại của người kia. (…) Ta trải cơ mạn xa để chiến đấu với người đây. Ta thà chết vinh trong trận chiến, còn hơn sống nhục trong đầu hàng” (Daisaku Ikeda “Quan điểm của
tôi về cuộc đời Đức Phật Thích Ca Mầu Ni”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1996, tr.91). Trong lời nói này ta thấy câu cuối cùng “ta thà chết vinh trong trận chiến, còn hơn sống nhục trong đầu hàng” mâu
thuẫn với những câu ở phía trên. Khi rèn luyện tư duy nhiều ta sẽ nâng cao được khả năng phát hiện mâu thuẫn trong các suy luận của chính mình và của người khác, phát hiện thấy những cái không ổn trong các suy luận đó. Khi phát hiện rằng suy luận “có điều gì đó không ổn”, nghĩa là phát hiện ra khả năng chứa mâu thuẫn gián tiếp của nó ta có thể tiến hành đặt liên tiếp các câu hỏi để người đưa ra suy luận trả lời và bằng cách đó chỉ ra mâu thuẫn trực tiếp.

READ  Tiểu luận triết học Ý thức và vai trò của tri thức trong đời sống xã hội |Traloitructuyen.com

Ví dụ 2 :
Khi thấy lời khai của người bị tình nghi phạm tội có chứa điều gì đó không ổn, cán bộ điều tra sẽ đặt ra cho người đó hàng loạt câu hỏi cho đến khi người đó không trả lời được nữa, vì thấy mình đã gặp mâu thuẫn rõ ràng, trực tiếp.
Ví dụ 3 :
Trong câu chuyện tiếu lâm về con rắn vuông, khi nghe chồng kể về một con rắn khổng lồ, chị vợ đã liên tục tỏ ý nghi ngờ về chiều dài của nó. Điều này làm cho anh chồng liên tục rút ngắn chiều dài của con rắn, và cuối cùng là có được con rắn vuông. Như vậy, mâu thuẫn chưa lộ rõ hẳn giữa sự tồn tại của con rắn khổng lồ trong câu chuyện của người chồng với thực tế đến lúc này đã trở thành mâu thuẫn rõ
ràng giữa sự tồn tại của con rắn vuông với thực tế. Câu “nói dối hay cùng” chính là nói về những trường hợp như thế này. Nắm vững nội dung và áp dụng thành thạo quy luật không mâu thuẫn giúp ta trình bày tư tưởng nhất quán và dễ dàng phát hiện các biểu hiện ngụy biện trong suy luận


III. QUY LUẬT BÀI TRÙNG :


3.1 Cơ sở khách quan của quy luật :

Là tính xác định về chất của các đối tượng . Trong các sự vật hiện tượng của thế giới khách quan , một dấu hiệu nào đó của các đối tượng chắc chắn phải có hoặc không có chứ không thể có chứ không
thể có một khả năng thứ ba nào khác . Vì thế , nếu thế giới là tình thế , tức là bị phân xẻ thành ‘’ có – không ‘’ , thì để phản ánh về tin cậy về thế giới tư duy cũng không thể không là tình thế . Trong tư duy nhất định phải có tác động của luật bài trùng .


3.2 Nội dung của quy luật :

Công thức : ‘’ a V 7a ‘’ , ‘’ có a hoặc không a ‘’
Một phán đoán chỉ có thể là chân thực hoặc giả dối chứ không thể có giá trị thứ 3 nào khác .

Hoặc : Hai phán đoán mâu thuẫn với nhau không thể cùng tồn tại , một trong hai phán đoán đó phải không tồn tại .
Ví dụ 1:
 Hồ Tây sâu hoặc Hồ Tây không sâu .

 Trời đang mưa hoặc trời không mưa .
Các phán đoán trên không thể đồng thời tồn tại nhưng có đúng với thực tiễn hay không phải qua thực tiễn kiểm nghiệm .
Quy luật bài trùng có tác dụng với các phán đoán mâu thuẫn nhau là :
 “ S là P “ và “ S không là P ‘’ ( các phán đoán đơn nhất P )

 ‘’ Tất cả là P “ và ‘’ Một số không là P ‘’ ( các phán đoán mâu thuẫn ) .
 ‘’ Không S nào là P “ và “ Một số S là P ‘’ ( các phán đoán mâu thuẫn ) .


3.3 Yêu cầu của quy luật và các lỗi thường gặp :

Yêu cầu của quy luật:

Luật Bài trùng yêu cầu phải lựa chọn một trong hai theo nguyên tắc “hoặc là … hoặc là “, không có giải pháp thứ 3. Trong việc tìm giải pháp để giải quyết một vấn đề có các phán đoán mâu thuẫn thì không được lảng tránh câu trả lời xác định lựa chọn , tránh thừa nhận cả hai .( ví dụ 1 )
+ Phải định hình tư duy khi phản ánh đối tượng ở phẩm chất xác định nào đó, tức là phải công nhận là chân thực một trong hai tư tưởng mâu thuẫn với nhau khi cùng phản ánh đối tượng ở phẩm chất xác
định trong cùng một quan hệ nhất định
VD: chuyện dân gian TQ kể rằng, chúa sơn lâm hỏi Gấu:”Hôm nay phòng ta có mùi gì?”. Gấu thưa:“Phòng bẹ hạ hôm nay có mùi hôi”. Gấu bị chém vì tội khi quân.
Hỏi đến Cáo, Cáo thấy Gấu bị phạt nên nói:“Phòng bệ hạ hôm nay thơm như hoa nhài”. Cáo bị phạt vì tội nói dối. Hỏi đến Thỏ, Thỏ thấy cả Gấu và Cáo đều bị phạt nên khôn ngoan trả lời:“Thưa bệ hạ, hôm nay thần bị ngạt mũi nên không ngửi thấy mùi gì”.
Ở đây, ta thấy, Thỏ đã khôn ngoan sử dụng việc vi phạm luật chơi của chúa sơn lâm để tránh né phải trả lời.
- Phải định hình nội dung các danh từ logic được sử dụng để diễn đạt tư tưởng.
VD: Một nhà thông thái muốn kén rẻ thông minh cho con gái bèn treo bảng kén rẻ. Anh hào các nơi kéo về, nhà thông thái bày ra 2 đĩa thức ăn và bảo:“Các anh hãy ăn đi. Ăn thừa thì ta đánh đòn cho chết, mà ăn hết thì ta đánh chết bằng đòn. Ai ăn mà vẫn không thể bị đòn thì ta sẽ kén làm rể.” Mọi người lúng túng rồi bỏ đi.Mãi sau mới có một chàng trai xin thử. Anh ta ăn hết một đĩa thức ăn còn đĩa còn lại thì không động tí nào, kết quả anh ta được chọn làm rể. Trong câu chuyện trên, nhà thông thái khôn ngoan đã sử dụng tính không xác định của phạm vi k/n “ăn còn” và “ăn hết” đối với thức ăn đem ra (2 đĩa) để thử trí thông minh của các chàng trai.
Lỗi logic thường gặp :
Sử dụng 1 trong 2 phán đoán mâu thuẫn hoặc sử dụng cả hai phán đoán mâu thuẫn đó trong một phán đoán phức ( ví dụ 2,3 )
Ví dụ 1 :
Anh A đã ăn cơm >Ví dụ 2 :
Cả lớp có ý thức kỷ luật tốt trừ một số hay vi phạm kỉ luật
Ví dụ 3:
Chưa có ai trong lớp có bằng ngoại ngữ B1 châu Âu , chỉ có một số bạn trước đây học ở trường phổ thong chuyên ngữ là có .
Phát biểu : Một phán đoán , nhận định hoặc đúng hoặc sai chứ không thể có giá trị thứ ba nào khác. Đây là quy luật đặc trưng của logic hai giá trị - logic thông thường mà ta vẫn sử dụng . Với một
phán đoán , nhận định nhất định , quy luật bài trùng không cho nó biết nó đúng hay sai nhưng cho biết rằng nó chỉ có thể đúng , hoặc sai chứ không thể có giá trị nào khác.
Ví dụ :
Ta chưa biết câu nói ‘’ Có người ngoài Trái đấy đến thăm Trái đât “ đúng hay sai , nhưng quy luật bài trùng khẳng định rằng hoặc nó đúng , hoặc nó sai . Quy luật bài trùng không cho phép người ta tránh
né vấn đề khi trả lời câu hỏi . Nó không cho phép trả lời lấp lửng , nước đôi , mà đòi hỏi câu trả lời dứt khoát .
Ví dụ :
Khi một thanh niên đi kiếm việc làm được hỏi có biết ngoại ngữ hay không thì anh ta chỉ có thể trả lời “ có “ hoặc “ không “ , tất cả các câu trả lời khác đều không có giá trị . Trong thực tiễn , người ta ứng
dụng quy luật bài trùng để chứng minh bằng phản chứng . Đôi khi ta gặp những câu nói rất sâu sắc mà biểu hiện trực tiếp là quy luật bài trùng .
Ví dụ :
Cuối bộ sách“ Tam quốc diễn nghĩa “ sau khi kể chuyện nhà Tần thống nhất Trung Quốc , tác giả La Quán Trung đã viết, đại ý : Lịch sử các nước cứ như vậy , hết hợp thì tan , hết tan rồi lại hợp . Hay , cuối bộ sách “ Hồng lâu mộng “ sau khi kể vợ Bảo Ngọc sinh con trai và gia đình họ Giả bắt đầu hưng thịnh trở lại , tác giả Tào Tuyết Cần iết , đại ý : Ở đời cứ như vậy , hết thịnh rồi suy , hết suy rồi lại thịnh . Một số tác giả cho rằng quy luật bài trùng là hệ quả của quy luật đồng nhất .Đây là một sự nhầm lẫn. Ta có thể bác bỏ điều đó hết sức dễ dàng. Thật vậy , nếu quy luật triệt tam là hệ quả của quy luật đồng
nhất thì ở bất cứ chỗ nào mà quy luật đồng nhất đúng thì quy luật bài trùng cũng phải đúng . Nhưng rõ ràng là trong các hệ logic 3 giá trị quy luật đồng nhất vẫn đúng , trong khi đó thì quy luật bài trùng
không đúng . Trong những suy luận nhằm rút ra quy luật bài trùng từ quy luật đồng nhất mà thỉnh thoảng ta gặp trung các tài liệu logic chứa sẵn vòng tròn logic. Những suy luận kiểu này được thực hiện trong khuôn khổ của logic hai giá trị và sử sụng các tính chất của logic đó .
Tuy nhiên sở dĩ logic hai giá trị là hai giá trị vì nó tuân thủ quy luật bài trùng . Như vậy có nghĩa là những tính chất của logic hai giá trị được sử dụng để rút ra quy luật bài trùng từ quy luật đồng nhất phụ thuộc vào chính quy luật bài trùng .


IV . QUY LUẬT LÝ DO ĐẦY ĐỦ:

4.1 Cơ sở khách quan của quy luật :


Các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan đều có mối lien hệ chặt chẽ với nhau . Sự hình thành một sự vật , hiện tượng đều do nhiều mối liên hệ , nhiều tác động . Mối liên hệ giữa các tác động để tạo thành sự vật , hiện tượng đó được phản ánh trong tư duy , cho chúng ta biết những lý do để có được sự vật , hiện tượng .
Do vậy, một tư tưởng chân thực, có tính thuyết phục về sự vật , hiện tượng phải có được các lý do đầy đủ , phản ánh các tác động tạo sự vật hiện tượng đó .
Quy luật lý do đầy đủ đòi hỏi các tư tưởng phải được đưa ra trên những cơ sở nhất định. Tư duy của chúng ta cấu thành từ một chuỗi các tư tưởng như vậy.Những tư tưởng đi trước làm cơ sở cho những tư tưởng đi sau.Chỉ trong trường hợp đó thì tư duy mới được coi là chặt chẽ, có logic.Ngược lại, tư tưởng sẽ lủng củng.Người nghe sẽ thấy người nói nhảy từ vấn đề này qua vấn đề khác một cách tùy tiện.
Trong thực tế, đòi hỏi làm một việc gì đó hoặc trình bày một vấn đề nào đó theo một trình tự nhất định chính là đòi hỏi thỏa mãn quy luật này. Quy luật lý do đầy đủ dựa trên một quy luật rất cơ bản của tự

CÁC QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA TƯ DUY HÌNH THỨC

2.1. QUAN NIỆM CHUNG VỀ QUI LUẬT CỦA TƯ DUY
2.1.1. Qui luật và qui luật logic của tư duy

Qui luật là những mối liên hệ có tính tất yếu, cơ bản, phổ biến, lặp đi lặp lại giữa các sự vật hiện tượng. Quá trình tư duy diễn ra cũng hết sức tinh vi, phức tạp, song nó cũng phải tuân theo những qui luật nhất định để phản ánh hiện thực khách quan.

Qui luật logic là qui luật chi phối sự vận động của quá trình tư duy, chi phối quá trình suy nghĩ của con người trong khi phản ánh giới hiện thực. Qui luật logic nào chi phối toàn bộ quá trình tư duy được gọi là qui luật logic cơ bản, còn qui luật logic nào chỉ chi phối một lĩnh vực, một bộ phận của quá trình tư duy dược gọi là các qui luật logic không cơ bản.

Logic học có hai chuyên ngành, đó là Logic biện chứng và Logic hình thức. Logic hình thức khi xem xét tư duy, nó không xem xét, không để ý đến các khía cạnh như đối tượng phản ánh, nội dung phản ánh của nó, cũng như hình thức ngôn ngữ diễn đạt tư tưởng, mà chỉ tập trung sự chú ý đến “Cấu tạo logic” của tư tưởng. Tức là chú ý tới phương thức liên kết, phương thức tổ chức các bộ phận cấu thành nội dung tư tưởng đã định hình trong tư duy để tạo nên một ánh phản xác định về đối tượng ở một phẩm chất nhất định, mà ta có thể đánh giá được là ánh phản đó là chân thực hay giả dối.

Cơ cấu logic hay cấu tạo logic của tư tưởng không phải là cái mà con người quy ước hay bịa đặt ra một cách tuỳ tiện, mà nó là ảnh, là hình thức của ánh phản, phản ánh những quan hệ xác định trong hiện thực đã được con người nhận thức thông qua thực tiễn. Cơ cấu logic ấy, vì vậy, không tách rời hay đứng trên nội dung phản ánh của tư tưởng, mà nó là một bộ phận hữu cơ làm nên tư tưởng. Do đó, cấu tạo logic cũng góp phần qui định tính chân thực hay giả dối của nội dung tư tuởng trong việc phản ánh đối tượng.
 

Nhiệm vụ của Logic hình thức là nghiên cứu, tìm ra các cơ cấu logic khác nhau của tư tưởng, vạch ra các nguyên tắc, các qui luật cho sự kết hợp các hình thức của tư tưởng (trong tính độc lập tương đối của nó với nội dung phản ánh) để chúng đạt tới sự phản ánh chân thực hiện thực khách quan.

Trong Logic hình thức, có bốn qui luật cơ bản đó là luật đồng nhất, luật cấm mâu thuẫn, luật lý do đầy đủ. Ngoài ra Logic hình thức còn có rất nhiều các qui luật logic không cơ bản khác , đó là các qui tắc, các công thức... chi phối một bộ phận này hay một bộ phận khác của các hình thức cơ bản của tư duy.
 

2.1.2. Đặc điểm chung của các qui luật logic của tư duy hình thức

Những qui luật của tư duy mà Logic hình thức nghiên cứu không phải là toàn bộ những qui luật mà tư duy trong quá trình nhận thức phải tuân theo, mà chỉ là những qui luật của tư duy hình thức (tư duy đã được định hình về đối tượng ở phẩm chất xác định trong một thời gian, một điều kiện và một mối quan hệ nhất định). Những qui luật này phản ánh những mối liên hệ cơ bản, tất yếu, giữa các đơn vị cấu thành của tư tưởng mà nó phát sinh trong quá trình thực hiện các thao tác tư duy.

Đặc trưng chung nhất, cơ bản nhất của các qui luật của tư duy hình thức là nó gắn với các hình thức của các thao tác tư duy khác nhau như: Suy luận, định nghĩa, phân loại, chứng minh, bắt bẻ, giả thuyết. Qui luật của tư duy hình thức biểu thị những thuộc tính chung nhất của tư duy đúng đắn như: Tính xác định, tính liên tục, tính không mâu thuẫn, tính có căn cứ của tư duy trong sự phản ánh hiện thực.

Các qui luật của Logic hình thức còn mang một đặc trưng khách quan là tồn tại độc lập với ý thức con người, nhưng lại được hình thành trong ý thức con người. Chúng không do ai tạo ra, mà là kết quả hoạt động thực tiễn của con người phát hiện, sử dụng nhằm mục đích nâng cao trình độ tư duy, loại trừ các sai lầm logic. Tính khách quan của qui luật lôgích hình thức còn thể hiện ở chỗ là nó không lệ thuộc vào tính giai cấp, tính dân tộc, vì kết cấu tư duy của mọi người là như nhau.

Các qui luật logic hình thức còn mang đặc trưng tiên đề, tức là tính chân thực của chúng không cần phải chứng minh, tính chân thực đó đã đưîc thực tiễn kiểm nghiệm lặp đi lặp lại hàng triệu triệu lần, như Lênin đã viết trong Bút ký triết học, trang 211 “Hoạt động thực tiễn của con người đã làm cho ý thức của con người lÆp đi lÆp lại hàng nghìn triệu lần những cách logic khác nhau càng làm cho các cách này có thể có được ý nghĩa công lý”. Vì vậy muốn đạt tới chân lý con người nhất thiết phải tuân theo các qui luật của Logic hình thức trong qua trình tư duy. Con người không thể nhận thức được đối tượng, nếu chỉ xem xét đối tượng trong quá trình vận động biến đổi không ngừng của chúng, mà bỏ qua sự nhận thức mặt ổn định tương đối của chúng. Nghĩa là, nếu ta bỏ qua sự nhận thức đối tượng trong sự thống nhất giữa lượng và chất của nó trong không gian, thời gian xác định, khi nó còn là nó, phân biệt được với các đối tượng khác, thì thực chất, ta cũng không thể nhận thức đúng đắn được hiện thực khách quan như nó vốn có.
 

READ  Bài thu hoạch lớp bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo quản lý cấp phòng (2 mẫu) | Traloitructuyen.com

2.2. CÁC QUI LUẬT CỦA TƯ DUY HÌNH THỨC
2.2.1. Qui luật đồng nhất
2.2.1.1. Đặc trưng phản ánh của qui luật

Qui luật đồng nhất phản ánh quan hệ đồng nhất trừu tượng của sự vật hiện tượng trong thế giới hiện thực với chính bản thân nó ở một phẩm chất nhất định trong điều kiện xác định được xem xét. Đây chính là nguyên tắc có tính chất cơ sở để xây dựng toàn bộ khoa học Logic hình thức. Tính đồng nhất trừu tượng của mỗi một sự vật hiện tượng, là điều kiện trước tiên, để định hình tư duy với tư cách là ảnh tinh thần về đối tượng phản ánh. Trong hiện thực, mỗi sự vật hiện tượng đều luôn vận động, biến đổi, nó vừa là nó đồng thời lại đang là cái khác với nó. Nhờ có thao tác đồng nhất trừu tượng trong đầu óc con người mà người ta mới định hình được những hiểu biết về đối tượng và phân biệt nó với những cái không phải là nó.

2.2.1.2. Nội dung của qui luật

Qui luật đồng nhất phát biểu như sau: “Một ý nghĩ, một tư tưởng đã được định hình trong tư duy phản ánh đối tượng ở một phẩm chất xác định, thì phải đồng nhất với chính bản thân nó (tức chính sự vật đó) hoặc với chính tư tưởng ấy về mặt giá trị logic”. Nói cách khác: Mỗi tư tưởng (khái niệm, phán đoán) khi đã định hình về đối tượng ở một phẩm chất xác định thì phải tường minh, và giữ nguyên nghĩa trong suốt quá trình tư duy (lập luận) để rút ra kết luận.

Qui luật đồng nhất có thể được biểu diễn bằng công thức:

Đọc là: “A đồng nhất với A về giá trị logic” hoặc “Nếu A chân thực thì A là chân thực”.

2.2.1.3. Yêu cầu của qui luật

- Không được đánh tráo đối tượng (nội dung) của tư tưởng - nghĩa là một khi tư tưởng đã định hình phản ánh đối tượng ở một phẩm chất nào đó thì trong suốt quá trình tư duy nó chỉ được phản ánh đối tượng ở phẩm chất đó mà thôi, không được thêm bớt phẩm chất (xuyên tạc nội dung), tức là không được phản ánh sang đối tượng ở một phẩm chất khác với phẩm chất ban đầu được xét. Đơn giản là, trong quá trình tư duy, lập luận không được thay đổi nội dung tư tưởng (cùng các điều kiện tạo thành nội dung đó) đã được các xác định từ đầu, không được thay đổi đối tượng của tư tưởng này bằng đối tượng tư tưởng khác. Vi phạm yêu cầu này tức là tư duy vi phạm qui luật đồng nhất.

a≡a

- Không được đánh tráo ngôn ngữ diễn đạt tư tưởng - Nghĩa là những tư tưởng khác nhau không được đồng nhất với nhau hoặc ngược lại từ tư tưởng đồng nhất không được rút ra hai tư tưởng khác nhau. Đơn giản là trong biểu đạt không được ý nọ lời kia, nếu khi chọn từ, chọn câu để diễn đạt mà lại không trình bày đúng ý tưởng đúng đối tượng phải trình bày, tức là đã vi phạm luật đồng nhất.

- Ý nghĩ, tư duy tái tạo phải đồng nhất với ý nghĩ, tư duy nguyên mẫu - nghĩa là khi nhắc lại, tái tạo lại một tư tưởng nào đó của mình hay của người khác, thì phải nhắc lại hay tái tạo lại chính xác tư tưởng đó, không được làm sai lạc nội dung của ý nghĩ, tư tưởng nguyên mẫu. nếu nhắc lại hay tái tạo lại sai ý nghĩ, tư tưởng đã định hình ban đầu là vi phạm yêu cầu thứ ba của qui luật, trường hợp này ta gọi là tam sao thất bản.

 

2.2.1.4. Ý nghĩa của qui luật đồng nhất

Qui luật đồng nhất biểu thị một tính chất rất cơ bản của tư duy, đó là tính xác định. Nếu không có tính chất xác định đó thì ta không thể hiểu đúng và dẫn tới hiểu lầm nhau theo kiểu ông nói gà bà nói vịt. Tính xác định này phản ánh tính ổn định tương đối về chất của đối tượng trong hiện thực. Tuân thủ các yêu cầu của qui luật đồng nhất giúp chúng ta nắm chắc nội dung tư tưởng của vấn đề đã đặt ra từ trước và trong quá trình lập luận... chúng ta bị không lạc vấn đề, cũng như tư duy không bị rối loạn.

Qui luật đồng nhất giúp ta khắc phục tính mơ hồ về nội dung vấn đề, tính không cụ thể của phạm vi vấn đề được đề cập, đặc biệt chống lối nói nước đôi hoặc nguỵ biện.

* Chú ý:

- Những từ đồng âm khác nghĩa và đồng nghĩa khác âm dễ vi phạm yêu cầu qui luật

- Dễ phạm sai lầm khi hiểu biết của ta về đối tượng không đầy đủ nên trong ngôn ngữ diễn đạt lại dùng theo nghĩa khác (mở rộng khái niệm).

- Trong tranh luận khoa học trước những vấn đề phức tạp, không đủ năng lực giữ vững đối tượng (lạc đề, vượt quá phạm vi vấn đề đặt ra)

- Dễ phạm sai lầm trong suy luận suy diễn nếu hiểu biết của ta không đầy đủ và diễn đạt không chính xác sẽ gấp bốn thuật ngữ trong tam đoạn luận.

 

2.2.2. Qui luật cấm mâu thuẫn

2.2.2.1. Đặc trưng phản ánh của qui luật

Qui luật cấm mâu thuẫn phản ánh sự khác biệt của đối tượng đang được xét với các đối tượng khác, đồng thời cũng phản ánh sự khác biệt của đối tượng đang được xét ở một phẩm chất đã được xác định với các phẩm chất khác của chính đối tượng đó. Như vậy, qui luật cấm mâu thuẫn cũng khẳng định lại đặc trưng đồng nhất trừu tượng của mỗi sự vật, hiện tượng với chính nó, nhưng dưới dạng phủ định. Nghĩa là, mỗi sự vật hiện tượng, hoặc thuộc tính nào đó của sự vật, hiện tượng, trong cùng một không gian, thời gian, cùng một quan hệ xác định thì không thể đồng thời vừa tồn tại vừa không tồn tại, vừa có lại vừa không.

2.2.2.2. Nội dung qui luật

Qui luật cấm mâu thuẫn được phát biểu như sau: “Một ý nghĩ, một tư tưởng khi đã được định hình trong tư duy, phản ánh đối tượng ở một phẩm chất xác định thì không thể đồng thời mang hai giá trị logic trái ngược nhau”. Qui luật này có thể phát biểu tóm tắt là: “Hai ý nghĩ, hai tưởng mâu thuẫn nhau thì không thể cùng chân thực”. Nói dễ hiểu, thì trong quá trình lập luận về đối tượng hay “vấn đề” nào đó ta không được vừa khẳng định, vừa phủ định một cái gì đó thuộc về đối tượng ở cùng một quan hệ, một điều kiện xem xét.

Công thức diễn đạt qui luật:

Đọc là: (Không thể có chuyện vừa “a” vừa “không a”)

Hoặc là: (Không thể có chuyện vừa là “a” vừa là “không a” mà lại cùng chân thực)

2.2.2.3. Yêu cầu của qui luật

- Không được dung chứa mâu thuẫn logic trực tiếp trong tư duy khi phản ánh về đối tượng ở một phẩm chất xác định (về cùng một đối tượng, ở cùng một thời gian và trong cùng một mối quan hệ). Tức là về cùng một đối tượng, ta không thể đồng thời vừa khẳng định điều gì đó song lại phủ định ngay chính điều ấy. Nếu các tư tưởng, ý nghĩ mà mâu thuẫn phủ định nhau tức là vi phạm yêu cầu của qui luật, ta thường gọi là lỗi “Tiền hậu bất nhất”.

Ví dụ: Nghe cha mẹ hỏi “Con ngủ chưa”?. Bé trả lời: “Con ngủ rồi ”

- Không được dung chứa mâu thuẫn logic gián tiếp trong tư duy. Có hai trường hợp xảy ra:

+ Về một đối tượng nào đó, ta không được vừa khẳng định một điều gì đó về đối tượng, rồi sau đó lại phủ định những hệ quả được rút ra từ điều ta vừa khẳng định.

┐(a ∧┐a)

Phần 2: Các qui luật logic cơ bản của tư duy hình thức

“Ông hãy lấy cái Mâu của ông để đâm cái thuẫn của ông đi, nếu đúng như lời rao thì tôi mới mua” - Liệu người bán Mâu và Thuẫn có thể đáp ứng yêu cầu đó không?

+ Về cùng một đối tượng, ta không được khẳng định cho chúng hai thuộc tính mà trong thực tế hai thuộc tính đó lại loại trừ nhau lẫn nhau.

Ví dụ trong “Ngụ ngôn LaFonten”có chuyện: “Một khách bộ hành xin ngủ qua đêm nhà của Quỷ. Vợ chồng Quỷ rất mừng tưởng gặp dịp may. Gia đình Quỷ sửa soạn ăn tối. Quỷ mời khách cùng ăn. Ngồi vào bàn, anh ta đưa hai bàn tay lên miệng thổi.

- Ông làm gì vậy? Quỷ cái hỏi.

- Trời lạnh cóng tay, ta thổi cho nó ấm lên. Quỷ vợ múc cho khách một đĩa xúp, hơi bốc lên nghi ngút. Khách lại ghé miệng vào đĩa mà thổi. Quỷ cái lại hỏi:

- Ônglàmgìvậy?.

- Khách trả lời: “Ta thổi cho nó nguội đi!”. Nghe vậy Quỷ chồng hốt hoảng:

- Ới ông ơi! Xin ông đi đâu thì đi. Ngay bọn Quỷ chúng tôi cũng không thể làm một cái thổi vừa làm cho nóng lên lại vừa làm cho lạnh đi!”.

Ta thấy, trong câu chuyện trên Quỷ đã lầm khi cho rằng con người làm được hai việc mâu thuẫn nhau, vì nó đã đồng nhất hai cái thổi ở hai thời điểm khác nhau trong hai quan hệ khác nhau (thổi - bàn tay lạnh / thổi - đĩa xúp nóng).

2.2.2.4. Ý nghĩa qui luật

Không có mâu thuẫn logic trong tư duy là điều kiện cần thiết của nhận thức chân lý. Qui luật cấm mâu thuẫn biểu thị tính chất cơ bản của tư duy đó là tính liên tục và không mâu thuẫn, tôn trọng các yêu cầu của qui luật là điều kiện cần thiết để tránh mâu thuẫn trong tư duy khi phản ánh về đối tượng ở cùng một phẩm chất, trong cùng một thời gian, một điều kiện và một mối quan hệ.

2.2.3. Qui luật loại trừ cái thứ ba

2.2.3.1. Đặc trưng phản ánh của qui luật

Qui luật loại trừ cái thứ ba phản ánh tính xác định về mặt giá trị logic của tư tưởng đã được nêu lên. Nói cách khác, khi tư duy của chúng ta đã định hình để phản ánh về một đối tượng ở một phẩm chất xác định nào đó thì tư duy chúng ta chỉ có thể là phản ánh một cách chân thực hoặc là phản ánh một cách giả dối, chứ không thể vừa chân thực vừa giả dối.

2.2.3.2. Nội dung qui luật

Qui luật loại trừ cái thứ ba phát biểu như sau: “Một ý nghĩ, một tư tưởng đã được định hình trong tư duy, phản ánh về một đối tượng ở một phẩm chất xác định thì phải mang một giá trị logic xác định, hoặc chân thực hoặc giả dối, không có trường hợp thứ ba.” Nói cách khác, có hai phán đoán phủ định nhau, theo cùng một quan hệ, trong cùng một thời gian, thì phải có một phán đoán đúng và phán đoán ngược lại là giả dối, chúng ta dứt khoát phải thừa nhận điều đó chứ không thể khác.

Công thức của qui luật:

Đọc là: “Tư tưởng “a” chân thực hoặc giả dối chứ không có khả năng thứ ba

2.2.3.3. Yêu cầu của qui luật

- Phải định hình tư duy khi phản ánh đối tượng ở phẩm chất xác định nào đó, tức là phải công nhận là chân thực một trong hai tư tưởng mâu thuẫn với nhau khi cùng phản ánh đối tượng ở phẩm chất xác định, trong cùng một quan hệ nhất định.

- Phải định hình nội dung của các danh từ logic được sử dụng để diễn đạt tư tưởng.

Ví dụ: Một nhà thông thái muốn kén rể thông minh cho con gái, bèn treo bảng kén rể. Anh hào các nơi kéo về, nhà thông thái cho bày ra hai đĩa thức ăn, và bảo: “Các anh hãy thử ăn đi. Ăn còn thì ta đánh đòn cho chết; mà ăn hết thì ta cho đánh chết bằng đòn. Ai ăn mà vẫn không thể bị đòn thì ta sẽ kén làm rể”. Mọi người lúng túng, rồi bỏ đi. Mãi sau mới có một chàng trai xin được thử. Anh ta ăn một đĩa hết sạch, còn đĩa kia anh ta không động tới, kết quả anh ta được chọn làm rể.

Trong câu chuyện trên, nhà thông thái khôn ngoan đã sử dụng tính không xác định của phạm vi khái niệm “ăn còn” và “ăn hết” đối với thức ăn đem ra (hai đĩa) để thử trí thông minh của các chàng trai.

2.2.3.4. Ý nghĩa của qui luật

Qui luật loại trừ cái thứ ba giúp ta quyết đoán tìm ra kết luận chính xác trước một vấn đề đặt ra. Nó không cho phép người ta mơ hồ giữa cái khẳng định và cái phủ định, nó thể hiện tính Đảng trong tư tưởng.

Người vi phạm qui luật này trong nhiều trường hợp không phải là có biết hay không biết qui luật logic mà vấn đề ở chỗ tư tưởng không dám quyết đoán, không dám công nhận giữa cái đúng

a ∨ ┐a

và cái sai, hoặc ít ra là không dám công khai tuyên bố quan điểm của mình trước một vấn đề cần lựa chọn.
 

2.2.4. Qui luật lý do đầy đủ

2.2.4.1. Đặc trưng phản ánh của qui luật

Qui luật lý do đầy đủ phản ánh một thực tế là sự xuất hiện, biến đổi của sự vật hiện tượng của thế giới bao giờ cũng có nguyên nhân, có căn cứ. Đó là kết quả của sự liên hệ tác động giữa các yếu tố vốn có trong lòng sự vật hiện tượng, hoặc giữa các sự vật hiện tượng. Bởi vậy, tư tưởng một khi khẳng định hay phủ định một thuộc tính, một quan hệ hay bản thân đối tượng nào đó, thì phải có đầy đủ những căn cứ logic - nghĩa là phải chứng minh được tính chân thực của chính sự khẳng định hay phủ định ấy.

2.2.4.2. Nội dung qui luật lý do đầy đủ

Qui luật lý do đầy đủ phát biểu: “Một ý nghĩ, một tư tưởng khi đã được định hình trong tư duy phản ánh về đối tượng ở một phẩm chất xác định thì chỉ được công nhận là chân thực khi có đầy đủ căn cứ để xác định hay chứng minh cho tính chân thực đó”. Nghĩa là mỗi tư tưởng hay luận điểm nào đó chỉ được coi là hoàn toàn đúng, đáng tin cậy phải là tư tưởng hay luận điểm đã được chứng minh, tức là phải chỉ ra được lý do, sở cứ của sự đúng đắn, tin cậy đó.

Trong khoa học và trong hoạt động hàng ngày ta không thể công nhận hay bác bỏ một cách vô căn cứ, vô điều kiện một cái gì, khi nó chưa có đủ những bằng cứ. Những căn cứ, cơ sở, lý do có thể là những sự kiện thực tế, có thể là những điều đã được khoa học chứng minh và thực tiễn kiểm nghiệm, song cũng có thể là bằng con đường logic tức là so sánh với các luận điểm đã được chứng minh để lập luận về tính chân thực của chúng.

2.2.4.3. Yêu cầu của qui luật lý do đầy đủ

- Khi một tư tưởng, một ý nghĩ đã được định hình trong tư duy thì cũng phải xác định được giá trị logic của chúng

- Phải tìm được đầy đủ căn cứ làm chỗ dựa cho giá trị logic của tư tưởng, của ý nghĩ được nêu trên. Có hai loại căn cứ:

+ Lý do suy ra trực tiếp từ nguyên nhân (lý do ngoài logic), tức là lý do của một hiện tượng nào đấy chính là nguyên nhân của hiện tượng đấy. Ở đây, lý do và nguyên nhân đồng nhất với nhau.

+ Lý do logic: Dựa vào những luận điểm, định lý, qui tắc, công thức... đã được chứng minh là tin cậy làm lý do, làm tiền đề chứng minh cho một tư tưởng hay luận điểm nào đó là chân thực.

2.2.4.4. Ý nghĩa của qui luật lý do đầy đủ

Khi đưa ra một quan điểm cần chuẩn bị đầy đủ những luận chứng luận cứ cần thiết để bảo vệ cho quan điểm của mình. Không nên vội vã đưa ra nhận xét, kết luận về một điều gì đấy khi chưa đủ bằng chứng xác đáng để giải thích, chứng minh cho tính chân thực hay giả dối của nó. Không nên vội tin hay bác bỏ ngay những điều mà tư duy ta còn mơ hồ chưa xác định được giá trị logic của nó. Qui luật lý do đầy đủ giúp ta suy nghĩ, hành động một cách thận trọng chắc chắn, không tiếp thu bằng niềm tin mù quáng. 

Traloitructuyen.com cũng giúp giải đáp những vấn đề sau đây:

  • Các quy luật tư duy
  • Bài tập về các quy luật logic
  • Các phát biểu sau đã vi phạm quy luật tư duy nào vì sao
  • Ý nghĩa của quy luật đồng nhất
  • Vi phạm luật cơ bản của tư duy
  • Quy luật đồng nhất đảm bảo cho tư duy có được tính chất gì
  • Ví dụ vi phạm luật cơ bản của tư duy
  • Ví dụ về quy luật triệt tam
See more articles in the category: Tiểu luận