tiểu luận mê tín dị đoan

Or you want a quick look: Mẫu 1

Traloitructuyen.com cũng giúp giải đáp những vấn đề sau đây:

  • Ví dụ về mê tín dị đoan
  • Thực trạng mê tín dị đoan hiện nay
  • Chuyện mê tín dị đoan
  • Một số biểu hiện của mê tín dị đoan
  • Câu hỏi về mê tín dị đoan
  • Kể tên những hành vi mê tín dị đoan
  • Em phải làm gì để bài trừ tệ nạn mê tín dị đoan
  • Tệ nạn mê tín dị đoan là gì
mê tín dị đoan

mê tín dị đoan

 

Mẫu 1


Mở đầu 

Mê tín dị đoan là một hủ tục ở Việt Nam đã có từ nhiều thế kỷ trước. Điều đáng quan ngại là cùng với sự phát triển không ngừng của đất nước trên mọi lĩnh vực, thì hiện tượng mê tín dị đoan vẫn còn tồn tại, biến tướng dưới nhiều hình thức tinh vi, đánh vào tâm lý nhẹ dạ, cả tin và sự thiếu hiểu biết của nhiều người.   

Trên bình diện quốc gia, tác hại của tệ nạn mê tín dị đoan còn nghiêm trọng hơn nhiều khi có những thế lực thù địch, phản động, lợi dụng mâu thuân tôn giáo, tín ngưỡng để thực hiện hành vi truyền bá tư tưởng, truyền đạo trái phép, làm nhũng nhiễu suy nghĩ, chính kiến của mỗi người, ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn, văn minh của xã hội...mà đối tượng dễ bị dụ dỗ, lôi kéo nhất chính là những người công nhân lao động ít hiểu biết, dễ vì những lợi ích nhỏ nhặt trước mắt mà vô tình vi phạm pháp luật.

Dân tộc nào cũng có tín ngưỡng, văn hóa, niềm tin tôn giáo của riêng mình. Các tôn giáo hay tín ngưỡng dân gian, dù tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng đều có lịch sử hình thành và phát triển qua nhiều thế kỷ. Cho dù một số tôn giáo, tín ngưỡng có những yếu tố huyền ảo, mang tính truyền thuyết, thì mục đích chung hướng tới vẫn là niềm tin bất diệt về một đấng thiêng liêng, siêu nhiên, có quyền năng ban thưởng cho những hành động đẹp, những con người tốt bụng, hay trừng phạt những việc làm xấu, những kẻ độc ác... Qua đó, đức tin đã giúp con người tự răn mình, điều chỉnh hành vi, cách ứng xử; hay noi theo những tấm gương sáng; phản bác, lên án những kẻ xấu. Tựu trung là tôn giáo hay tín ngưỡng nào cũng đều nhằm hướng tới những giá trị tốt đẹp "Chân- Thiện- Mỹ".

Tuy nhiên, lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng để hoạt động mê tín dị đoan thì câng phải bài trừ. Có một nghịch lý là khi xã hội ngày càng phát triển, đời sống nhân dân được nâng cao, thì "phú quý sinh lễ nghĩa", các lễ hội, mà đi kèm theo đó là không ít những tệ nạn mê tín dị đoan cũng nở rộ như nấm sau mưa. Các hình thức: bói toán, đồng cốt, gọi hồn... tưởng như đã được dẹp bỏ, giờ lại có chiều hướng gia tăng, khó kiểm soát và nhanh chóng lây lan trong mọi tầng lớp xã hội.

Những việc làm mang ý nghĩa tốt đẹp ban đầu giờ bị biến tướng tinh vi dưới nhiều hình thức. Thờ cúng tổ tiên, ông bà vốn là truyền thống vô cùng tốt đẹp từ bao đời nay của dân tộc ta, nhằm ghi nhớ công ơn những thế hệ tiền bối, hướng về cội nguồn, đặc biệt là vào dịp Tết đến Xuân về. Nhưng lấy lý do ngày Tết mà mâm cao cỗ đầy, mời thày về cúng lễ rình rang hay thi nhau đốt vàng mã trong khi đời sống còn nhiều khó khăn, đặc biệt trong năm dịch bệnh Covid-19 đang hoành hành, thu nhập người lao động giảm sút thì thực sự rất lãng phí.

Nếu như Covid là thứ bệnh dịch đe dọa sức khỏe con người thì vấn nạn mê tín dị đoan cũng là một loại dịch bệnh, đe dọa đời sống văn hóa, tinh thần kéo theo những hệ lụy về kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh trật tự... Nếu như trong cuộc chiến với Covid-19, chúng ta phải nhanh chóng, thần tốc, quyết liệt, thì trận chiến với mê tín dị đoan lại là cuộc chiến thầm lặng, dài lâu, đòi hỏi sự kiên trì, nhẫn nại và khéo léo. Cuộc chiến cam go ấy rất cần đến sự chung tay góp sức của các cấp trong hệ thống và toàn thể nhân dân, trong đó, công đoàn cần là tổ chức đi đầu trong nêu gương, tuyên truyền, vận động công nhân lao động và gia đình có niềm tin tôn giáo, tín ngưỡng lành mạnh và văn minh.

Trong trận chiến đặc biệt này, chúng ta vừa có sứ mệnh bảo vệ, vừa có nhiệm vụ đấu tranh. Chúng ta trân trọng, bảo vệ, phát huy những giá trị thiêng liêng, bản chất tốt đẹp, nhân văn của tôn giáo, tín ngưỡng dân gian, đồng thời góp phần quản lý, giám sát, bài trừ, ngăn chặn các tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan và những ảnh hưởng tiêu cực của nó đến mọi mặt đời sống xã hội, vì một đất nước Việt Nam phát triển hiện đại, văn minh, vừa theo kịp với dòng chảy của thế giới, vừa vẹn nguyên bản sắc đậm nét của dân tộc

Mê tín, dị đoan có liên quan đến nhận thức của con người. Vì vậy, việc nâng cao nhận thức về nhiều mặt trong nhân dân là một trong những biện pháp quan trọng, góp phần bài trừ, loại bỏ tệ nạn xã hội này.

Trong đời sống xã hội ta hiện nay, mê tín, dị đoan được coi là hiện tượng có tính phổ biển trong cộng đồng dân cư không chi ở Việt Nam, mà hầu hết tại tất cả các quốc gia trên thế giới. Có ý kiến cho rằng: mê tín, dị đoan là những hình thức tổn tại đầu tiên trước khi hình thành các tôn giáo. Trong xã hội công xã nguyên thủy, do trình độ lực lượng sản xuất chưa phát triển, con người cảm thấy yếu đuổi và bắt lực trước tự nhiên rộng lớn và bí ẩn.

Vì vậy, họ gần cho tự nhiên những sức mạnh, quyền lực to lớn, thần thánh hỏa sức mạnh đó. Khi xã hội xuất hiện những giai cấp đối kháng, bên cạnh cảm giác yếu đuổi trước sức mạnh của tự nhiên, con người còn cảm thấy bất lực trước những sức mạnh tự phát của xã hội. Sự yếu kém của trinh độ phát triển lực lượng sàn xuất, sự bằn cùng về kinh tế, áp bức về chinh trị là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo mà ban đầu là hành vi mẽ tín, dị đoan

Cùng tìm hiểu khái niệm của Mê tín dị đoan, biểu hiện, hậu quả và quy định của pháp luật hiện hành về chống mê tín dị đoan qua bài viết dưới đây

1. Mê tín dị đoan là gì? 

.Mê tín được hiểu là có niềm tin mãnh liệt vào những điều phù phiếm, mơ hồ, không có căn cứ nào để chứng minh. Mê tín dị đoan tin vào những điều mơ hồ, nhảm nhí, không phù hợp với lẽ tự nhiên (tin vào bói toán, chữa bệnh bằng phù phép…) dẫn tới hậu quả xấu cho cá nhân, gia đình, cộng đồng về sức khoẻ, thời gian, tài sản, tính mạng. Mê tín dị đoan bao gồm những hành vi ông đồng, bà cốt, tin xin xăm bói quẻ, tin ngày lành tháng dữ, tin số mạng sang hèn, tin coi tay xem tướng, tin cúng sao, cúng hạn, cúng kem, tin thầy bùa thầy chú, tin cầu cúng tai qua nạn khỏi

Có thể khẳng định rằng mê tín có ở tất cả các nền văn hóa khác nhau, từ lạc hậu đến văn minh. Điểm khác duy nhất chính là mức độ và phạm vi ảnh hưởng của chúng.

Mỗi nền văn hóa đều có các tập tục, truyền thống riêng. Chúng có thể là phong tục truyền thống được gìn giữ ở nơi này nhưng có thể bị coi là mê tín dị đoan ở nơi khác.

Nhìn chung trong một số trường hợp thì khái niệm mê tín cũng khá mong manh. Chính thái độ và phản ứng của con người lên tập tục đó sẽ khiến chúng trở thành niềm tin đẹp đẽ hay là một sự mê tín đáng loại bỏ.

Mê tín và niềm tin tôn giáo không thể đánh đồng là một. Bản chất của tôn giáo, tín ngưỡng là làm phong phú đời sống tinh thần của con người.

Các giáo lý tôn giáo hướng chúng ta đến điều thiện, tránh xa cái ác chứ không phải là phủ nhận, xóa bỏ hết các văn hóa truyền thống, thành tựu mà xã hội đạt được.

2. Ảnh hưởng của mê tín dị đoan:

Dù cho những người xung quanh có nhắc nhở, khuyên bảo, ngăn cấm nhưng bản thân họ vẫn khó có thể từ bỏ những niềm tin đó. Cũng bởi vậy mà đã gây ra nhiều hệ lụy không mong muốn cho bản thân, gia đình và toàn xã hội.

– Về mặt tư tưởng, sự phát triển của các loại hình mê tín dị đoan sẽ xâm hại và từng bước phủ nhận thế giới quan duy vật biện chứng trong nhân dân, làm cho hệ tư tưởng Mác – Lênin và các phát kiến khoa học tiến bộ có nguy cơ bị đẩy lùi. Niềm tin mù quáng vào một thế giới siêu nhiên, vào sự quyết định và chi phối của thần tiên, ma quỷ sẽ thay chỗ cho mọi niềm tin khác, trong đó có cả niềm tin vào sức mạnh bản thân con người. Những niềm tin mù quáng sẽ làm cho con người mất đi sức mạnh cải tạo thế giới tự nhiên; làm cho xã hội mất đi động lực phát triển – đó là ý chí đấu tranh của con người.

Chủ nghĩa Mác – Lênin là hệ tư tưởng cách mạng nhất và khoa học nhất do chủ trương giải phóng xã hội, giải phóng con người, làm cho con người phát triển toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần; đồng thời học thuyết này được xây dựng trên cơ sở thế giới quan duy vật biện chứng và các nền tảng khoa học tự nhiên và khoa học xã hội khác. Giả sử rằng hệ tư tưởng Mác – Lênin bị phủ nhận thì niềm tin khoa học cũng bị đánh đổ; xã hội ngừng phát triển; con người không được giải phóng và luôn sống trong hoang mang, sợ hãi trước những ảo tưởng về thế lực siêu nhiên, hoang đường. Rõ ràng là điều đó sẽ không xẩy ra vì nó trái với quy luật phát triển của xã hội. Do đó hệ tư tưởng Mác – Lênin tất yếu là hệ tư tưởng lãnh đạo xã hội. tuy nhiên, mê tín dị đoan là một rào cản đáng lo ngại gây cản trở sự tác động của chủ nghĩa Mác – Lênin đối với xã hội.

– Trên lĩnh vực chính trị nội bộ, tệ mê tín dị đoan có thể thâm nhập vào tư tưởng của cán bộ, đảng viên. Nó nguy hiểm ở chỗ làm cho cán bộ, đảng viên từ bỏ ý chí, lập trường đấu tranh; từ bỏ vai trò tiên phong gương mẫu của bản thân để thực hiện sự chờ đợi, cầu xin ban ơn, che chở của thần linh ma quái. Cán bộ, đảng viên nếu vướng phải tệ mê tín dị đoan sẽ ít chú tâm cho công việc do thời gian được để dành cho những nghiên cứu tính toán về những điều thần bí.

Mê tín dị đoan là một trong những nguyên nhân gây mất đoàn kết nội bộ, chia rẽ bè phái làm cho uy tín lãnh đạo của đảng bị giảm sút, năng lực quản lý của nhà nước bị hạn chế. Điều này diễn ra do một số cán bộ, đảng viên có đầu óc nặng về mê tín. trong công tác tuyển dụng cán bộ, họ quan niệm rằng phải tuyển người có “nhân mạng”, “khắc tinh”, phù hợp với mình như người tuổi chuột thì không thể tuyển người tuổi mèo vì như thế sẽ gây đe dọa cho mình; người có “mạng mộc” không thể tuyển dụng hoặc cất nhắc cho người “mạng kim” vì “mộc khắc kim”. Trong đơn vị, cơ quan, họ phân đồng nghiệp, đồng chí thành hai nhóm người: nhóm những người “tương sinh” và nhóm những người “tương khắc”. Những người “tương khắc” là những người kỵ tuổi, kỵ mệnh với mình sẽ làm cho mình “hao tài tốn của” hoặc bị “hãm tài” nên cần phải tìm cách cho nghỉ việc hoặc điều chuyển công tác khác… rất nhiều những chuyện về mất đoàn kết nội bộ do mê tín dị đoan xẩy ra trong lĩnh vực chính trị nội bộ. Nó có thể dễ dàng bị kẻ thù hoặc những phần tử cơ hội lợi dụng nhằm thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” hoặc động cơ cá nhân không trong sáng.

– Trong lĩnh vực kinh tế, mê tín dị đoan làm người ta mất đi động lực hoặc gây trì trệ cho việc phát triển sản xuất, kinh doanh. có những cơ quan, xí nghiệp do thủ trưởng quan niệm ngày tốt, ngày xấu, giờ “hoàng đạo”, giờ “hắc đạo” mà làm lỡ dịp ký kết hoặc thực hiện hợp đồng kinh tế. Có những công ty làm ăn bằng cách phân biệt đối tác không dựa trên cơ sở tính toán tối đa hóa lợi nhuận mà dựa trên cơ sở dịch lý âm dương. Nhiều gia đình, nhiều vùng, địa phương lâm vào tình trạng đình đốn cũng vì quan niệm ngày giờ tốt xấu trong kỳ thu hoạch… những vấn đề này đã gây nhiều sự thất thoát lớn trong việc tích lũy nhằm phát triển nền kinh tế quốc dân. Nó làm cho nhân dân thì tổn hại kinh tế, còn nhà nước bị thất thu.

– Trong đời sống sinh hoạt xã hội hàng ngày, mê tín dị đoan gây nên những lãng phí, bất ổn, đau thương, mất mát của nhân dân. Đó là sự cúng tế, cầu xin linh đình, đốt thải tiền bạc, vàng mã… vừa tốn kém vừa gây ô nhiễm môi trường; sự tổn hại về thể xác và tinh thần khi tin và chữa bệnh ở các thày mo,  ở mức độ nguy hiểm hơn thì đã có không ít trường hợp từng có nhiều người bị mắc bệnh nhưng lại tin vào thầy cúng rằng chỉ làm lễ để cúng bái thì có thể chữa khỏi bệnh. sự chia lìa của đôi lứa yêu nhau thật lòng nhưng bị bố mẹ ngăn cấm vì tin vào lời phán của thày bói; sự nghi kỵ, hiềm khích thù hằn dẫn đến chém giết lẫn nhau vì những quan niệm mê tín… những điều đó làm cho tính nhân đạo xã hội chủ nghĩa bị loại bỏ, thay vào đó là những sự độc ác, ích kỷ, hẹp hòi diễn ra giữa những cá nhân trong cộng đồng. khi có niềm tin vào những điều hoang đường một cách mù quáng thì sẽ bất chấp mọi lời khuyên ngăn của người thân, bạn bè và chỉ tập trung vào việc đi lễ bái tứ phương mà bỏ bê  tất cả các vấn đề khác

READ  Tiểu luận quy luật lưu thông tiền tệ và thực trạng lạm phát | Traloitructuyen.com

Bên cạnh đó, những người mê tín dị đoan còn lôi kéo bạn bè, người thân, những người xung quanh tham gia vào những hoạt động mê tín của mình ảnh hưởng tới trật tự xã hội và thuần phong mỹ tục của dân tộc ta.

Mê tín dị đoan – và thường kết hợp với nó là những hủ tục  gây nên những tác hại rất lớn trên mọi lĩnh vực của xã hội, từ tư tưởng, chính trị, đạo đức đến kinh tế, đời sống. Những ảnh hưởng tiêu cực đó không thể nào phù hợp cho một xã hội vì con người – một xã hội công bằng, dân chủ, hiện dại, văn minh. Vì vậy nó cần phải bị đấu tranh xóa bỏ mà vấn đề trước hết cần thực hiện là đấu tranh thông qua công tác tuyên truyền.

3. Pháp luật quy định về phòng chống mê tín dị đoan:

Mặc dù xã hội ngày càng phát triển nhưng không vì thế mà nạn mê tín dị đoan hết thuyên giảm. Ngày nay càng có nhiều người lợi dụng tự do tôn giáo, tín ngưỡng để tuyên truyền mê tín dị đoan tinh vi hơn. Vậy làm thế nào để xóa bỏ tệ nạn dai dẳng này?

  • Mỗi người nên phân biệt giữa mê tín và tín ngưỡng. Dù ranh giới này có mong manh nhưng nếu đủ tỉnh táo và hiệu biết thì chúng ta vẫn có thể thực hiện được.
  • Tuyên truyền bài trừ tệ nạn mê tín không phải là chuyện của riêng ai mà mà của cả cộng đồng. Đó là cách chúng ta gìn giữ những nét đẹp truyền thống và môi trường lành mạnh cho thế hệ sau của mình.
  • Nâng cao chất lượng cuộc sống, trình độ dân trí, đời sống tinh thần cũng là cách triệt mọi đường sống của những tệ nạn mê tín dị đoan.

Hiện nay Nhà nước cũng đã có các chế tài xử lý hành vi mê tín dị đoan quy định tại Bộ luật Hình sự 2015.

Điều 320. Tội hành nghề mê tín, dị đoan

1. Người nào dùng bói toán, đồng bóng hoặc các hình thức mê tín, dị đoan khác đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

a) Làm chết người;

b) Thu lợi bất chính 200.000.000 đồng trở lên;

c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.

4. Các dấu hiệu về Tội hành nghề mê tín dị đoan:

4.1. Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ thể của tội phạm:

Chủ thể của tội phạm này không phải là chủ thể đặc biệt, chỉ cần đến một độ tuổi nhất định và có năng lực trách nhiệm hình sự đều có thể là chủ thể của tội phạm này.

1. Người đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này quy định tại Khoản 2 của điều luật; người đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này không phân biệt trường hợp quy định tại khoản nào của điều luật.
Nếu chưa gây hậu quả nghiêm trọng thì người có hành vi hành nghề mê tín, dị đoan phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì mời là chủ thể của tội phạm này.

4.2. Các dấu hiệu thuộc mặt khách thể của tội phạm:

Tội hành nghề mê tín, dị đoan là tội xâm phạm đến trật tự nếp sống văn minh của xã hội

4.3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm:

a) Hành vi khách quan

Người phạm tội thực hiện hành vi hành nghề mê tín, dị đoan bằng các hình thức như: bói toán, đồng bóng hoặc các hình thức mê tín, dị đoan khác.

Mê tín, dị đoan là tin vào một điều mà không có căn cứ, không có cơ sở khoa học (tin một cách mù quáng), cho rằng có những sự việc nhất định đem lại hành phúc hoặc gây ra tai họa như: cho rằng giữa người sống và người chết có thể nói chuyện với nhau được thông qua việc lên đồng; nghe thấy tiếng chim lợn kêu thì sẽ có người sắp chết; tin vào bói toán; v.v..

Hành nghề mê tín, dị đoan lấy việc thu thập chủ yếu bằng việc bói toàn, đồng bóng hoặc các hình thức mê tín, dị đoan khác. Nếu việc bói toán, đồng bóng hoặc các hình thức mê tín, dị đoan khác chỉ có tính chất nhất thời hoặc không vì mục đích lấy việc bói toán, đồng bóng hoặc các hình thức mê tín,dị đoan khác để kiếm sống thì không gọi là hành nghề.

Bói toán là đoán về quá khứ và tương lai. Có nhiều kiểu bói như: vào xem hài chèo đang diễn, gặp hồi vui thì cho là vận may, gặp hồi buồn thì cho là vận xấu (bói chèo); đoán quẻ trong kinh dịch (bói dịch); gieo quẻ bằng ba đồng tiền (bói gieo, bói quẻ); mở truyện Kiều ra, rồi căn cứ vào cảnh tả trong một số câu trong truyện mà đoán hay hoặc dở (bói Kiều); xem các nét trên mai con rùa để đoán điều hay dở (bói rùa); căn cứ vào ngày tháng năm sinh, vào chỉ tay, lông mày, nốt ruồi hoặc các đặc điểm khác trên cơ thể để đoán số mệnh (bói số); rút thẻ rồi căn cứ vào các bài thơ, đoạn văn ghi sẵn trong số thẻ rồi đoán (bói thẻ),…

Đồng bóng là hình thức cúng lễ có người cho thần thánh, hồn ma nhập vào (người ngồi đồng) rồi thông qua người này đề nói về quá khứ, hiện tại, tương lai của người sống như là “thánh phán”. Hình thức mê tín, dị đoan này chủ yếu xảy ra ở các đền, chùa hoặc ở nhà riêng của người hành nghề mê tín, dị đoan (lập điện thờ).

Các hình thức mê tín, dị đoan khác

Ngoài hành vi bói toán, đồng bóng thì bất cứ hình thức mê tín, dị đoan nào mà người phạm tội sử dụng để kiếm sống đều bị coi là hành nghề mê tín, dị đoan như: yểm bùa, cúng giải hạn, cúng trừ tà ma, chữa bệnh bằng những khả năng thần bí không có căn cứ khoa học…

b) Hậu quả

Hậu quả của hành vi hành nghề mê tín, dị đoan vừa là dấu hiệu bắt buộc vừa không phải là dấu hiệu bắt buộc.

Là dấu hiệu bắt buộc nếu người phạm tội chưa bị xử phạt hành chính về hành vi hành nghề mê tín, dị đoan hoặc chưa bị kết án về tội này hoặc tuy đã bị kết án về tội này nhưng đã được xóa án tích.

Không phải là dâu hiệu bắt buộc nếu người phạm tội đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

Hậu quả nghiêm trọng do hành vi hành nghề mê tín, dị đoan là những thiệt hại nghiêm trọng về vật chất và phi vật chất cho xã hội. Do chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi hành nghề mê tín, dị đoan gây ra, nên có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP để xác định trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi hành nghề mê tín, dị đoan gây ra.

c) Các dấu hiệu khách quan khác

Đối với tội phạm này nhà làm luật không quy định dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Tuy nhiên, khi xác định hành vi hành nghề mê tín, dị đoan cần phân biệt với đời sống tâm linh, quyền tự do tín ngưỡng; mê tín, dị đoan thì bị Nhà nước cấm, còn tự do tín ngưỡng là quyền của mọi người được pháp luật bảo vệ

4.4. Dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm:

Người phạm tội thực hiện hành vi hành nghề mê tín, dị đoan là do cố ý.

Mẫu 2 "Vấn đề mê tín dị đoan ở Việt Nam hiện nay"

Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ MÊ TÍN DỊ ĐOAN (Tiểu luận: Vấn đề mê tín dị đoan ở Việt Nam hiện nay)

1.1. Mê tín dị đoan là gì?

Qua góc nhìn triết học, Ph.Ăngghen cho rằng: “tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo – vào trong đầu óc của con người – của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hằng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế”[3, 437]. Thật vậy, trong đời sống thường ngày con người luôn phải đối mặt với rất nhiều những khó khăn, thử thách, để rồi cũng có lúc vấp ngã, phải rơi vào bước đường cùng, bế tắc. Khi đó, con người cần lắm một chổ dựa tinh thần, một nơi gửi gắm niềm tin. Đồng thời con người luôn có khao khát chinh phục thiên nhiên, mong muốn lí giải những hiện tượng “bí ẩn” mà khoa học chưa thể giải đáp. Và rồi tôn giáo ra đời đáp ứng những nhu cầu đó. Thực chất, tôn giáo là sản phẩm sáng tạo của con người, nhưng có khả năng chi phối lại con người; nó là hiện tượng xã hội phản ánh sự bế tắc, bất lực của con người trước tự nhiên và xã hội. Đồng thời cũng chứa đựng nhiều giá trị phù với đạo đức, đạo lí của xã hội loài người. Do đó, tôn giáo không chỉ tồn tại mà ngay một phát triển hơn.

Tuy nhiên, trong xã hội đang tồn tại một hiện tượng khác với tôn giáo, nhưng có nhiều đặc trưng tương đồng với tôn giáo; đó chính là mê tín dị đoan; mê tín là tin tưởng một cách mù quáng, không có cơ sở. Dị Đoan: Dị là lạ – Đoan là mới. Mê tín dị đoan là tin tưởng một cách quáng mù vào những việc lạ, thiếu cơ sở, thiếu khoa học. Phần nhiều là những việc về tinh thần, nhưng cũng ảnh hưởng về vật chất, mê lầm tưởng đó là sự thật. Từ sự tin sai lầm, đưa tới nói năng sai lầm. Như tin bà đồng bà cốt, thầy bùa chú,…những loại tin này không có một chút căn bản, không thể chứng minh.(Tiểu luận: Vấn đề mê tín dị đoan ở Việt Nam hiện nay)

1.2. Nguồn gốc của mê tín dị đoan

Mê tín là cái bệnh có từ khi có loài người đến bây giờ. Có khi mê tín cách này, có khi mê tín cách khác. Như thời xưa, tin có thần cây đa, thần sông, thần núi,….Ngày nay, sự mê tín đã giảm nhiều, nhưng có những loại mê tín khác rất phổ biến trong đời sống hằng ngày.

Sự mê tín này không phải tự nhiên mà có, nó có nguồn gốc do sự mong cầu, sự sợ hãi,…

Mê tín do sợ hãi, là do nỗi sợ của con người trước những hiện tượng không thể lí giải của thiên nhiên, như: thiên tai bão tố, lũ lụt ngập tràn, sấm chớp chát chúa kinh hoàng,…Tất cả đã làm cho con người chết chóc, tai ương, nhà tan cửa nát,…Con người đã nghĩ ra thần này, quỷ kia tức giận gây nên sự tệ hại ấy và họ phải cúng váy để xin được yên ổn.

Ngày nay, sự sợ hãi trên bớt nhiều, nhưng có sự sợ hãi khác, kín đáo hơn, sâu xa hơn vẫn “hoành hành” ở mọi nơi. Không chỉ ở Châu Á có mê tín, mà ở Âu, Mĩ, Úc, Phi đều có, nhưng tồn tại với những hình thức khác nhau.

Con người sống trên cõi đời này, vốn đã có rất nhiều mong cầu, có mong cầu có thể đạt được, nhưng cũng có những mong cầu không thể thực hiện, vượt quá tầm tay; nhưng con người luôn tìm cách này, nghĩ cách khác cố làm sao để đạt được. Dù đạt được hay không cũng cố tìm cách, do đó dễ đi vào mê tín.

1.3. Các hình thức cách thức biểu hiện của mê tín dị đoan và tác động của nó đến xã hội nước ta(Tiểu luận: Vấn đề mê tín dị đoan ở Việt Nam hiện nay)

Mê tín dị đoan có nhiều hình thái tồn tại, nổi trội là “lên đồng”, bói toán (gồm xem tướng, xem tử vi,…),…

1.3.1. “Lên đồng”

Hình thức “lên đồng” ở đây liên quan đến một hình thái tôn giáo thế giới là Saman giáo – hình thái nảy sinh trong xã hội bộ lạc sắp bước vào phong kiến, khi đã có sự phân hóa, khi con người đã hiểu không phải ai cũng tiếp cận được với thần linh, mà phải thông qua những người có khả năng đó, là những thầy Saman. Ở Việt Nam, người ta gọi là những ông đồng bà đồng.
           Để thực hiện việc nối thông đó, các thầy Saman phải có khả năng tự đưa mình vào trạng thái ngây ngất, trong trạng thái như vậy thì thần linh mới nhập được hồn vào họ. Khi đó, họ không phải là họ, nhưng có khả năng giúp bản thân họ hoặc giúp mọi người chuyển tải những ước vọng của con người đến với thần linh. Saman giáo hiện nay có mặt trên khắp trên thế giới, điều đặc biệt là càng xã hội đô thị hóa, hiện đại hóa thì Saman càng phát triển, bởi con người phải chịu nhiều những dồn nén của xã hội.

Có những người có căn số mà không ra “trình đồng” thì họ sẽ trở thành điên loạn. Việc họ ra “trình đồng” là cách giúp họ tái hòa nhập với cộng đồng. Đó là một nhu cầu có tính chất cơ học, rơi vào trạng thái đó họ không còn là người nữa, hành vi của họ lệch chuẩn. Theo giáo sư Ngô Đức Thịnh, qua quá trình nghiên cứu thì 100% những người có căn số “lên đồng” bị điên loạn, được “ra đồng” đều khỏi. Cái đó không có gì là mê tín dị đoan cả. Nhân tố quan trọng nhất của tôn giáo tín ngưỡng là niềm tin vào những thứ mang tính chất siêu nhiên, những cái con người không giải thích được mà đang tác động tới đời sống? Tại sao chúng ta thờ cúng tổ tiên? Vì tình cảm cũng là một khía cạnh. Nhưng vì các cụ mất đi nhưng linh hồn các cụ vẫn còn, vẫn ngày ngày tác động tới đời sống con cháu nên người ta thờ, để tạo nên nối kết thông quan giữa con người và thần linh. Thì “lên đồng” cũng là một cách để nối thông với thần linh. Đừng nhìn “lên đồng” tách biệt, bởi “lên đồng” là một hoạt động của đạo Mẫu.

Liệu có phải tất cả những người đang xưng là “ông đồng, bà đồng” đều có khả năng đó? Phải phân biệt hai loại, một loại là những người có căn số, phải “ra đồng”. Thực chất, bản thân những “ông đồng bà đồng” không muốn vậy, mà họ bị đày, nếu không “ra đồng” thì thành điên loạn, ốm đau không chữa bệnh được. Còn khi đã “ra đồng” thì họ lại rất sướng, họ thành những “vị thần, vị thánh”. Nhưng gần đây, có lẽ khoảng từ những năm sau đổi mới, có thêm một loại nữa là “đồng đú, đồng đua”… những người không có căn số, nhưng trong xu trào hiện nay thì họ cũng thành những “ông đồng bà đồng”. “Lên đồng” là cách để họ giải tỏa, dù không phải chuyện sống chết, bệnh tật nhưng là nhu cầu giải tỏa dồn nén để có cân bằng. Việt Nam là một điển hình; gần đây, chuyện “lên đồng”, thường ở tầng lớp giàu có, hay đô thị nhiều “ông đồng bà đồng” hơn nông thôn. Đúng là trong xu hướng xã hội đang lao đi tìm kiếm những lợi ích vật chất thì cũng có nhiều người lợi dụng “lên đồng” để kiếm tiền. Chính nhóm những “ông đồng bà đồng” không có căn này có chuyện biến chất, lợi dụng niềm tin của con người để thu lợi cho họ. Đơn cử như trường hợp – Nguyễn Thị Hương (sinh năm 1983), sau một thời gian đi làm công nhân ở miền Nam đổi thành tên Bình. Bỗng một hôm “lên đồng”, cả gia đình từ lớn đến bé tự phong cho Bình là “Thánh nữ”, được “nhà trời” cử xuống “hạ giới” chữa bệnh cho nhân gian. Từ đó đến nay, “Thánh nữ” hành nghề tại gia (xóm 5B – xã Cát Văn – huyện Thanh Chương – tỉnh Nghệ An). Khi nghe đồn về “Thánh nữ”, chị Trần Thị Hải (trú tại thành phố Vinh) bị đau đầu kinh niên đã tìm đến chữa bệnh. Vừa đến nơi, chị Hải bị “Thánh” nạt: “Nhà ngươi là phụ nữ mà cứ đi quan hệ bất chính với người khác nên đã bị nhiễm HIV”. Nghe nói vậy, chị Hải ngất xỉu tại chỗ. Khi tỉnh dậy, “Thánh” yêu cầu chị đặt lễ hai trăm tám mươi ngàn đồng để chữa hết bệnh. Đặt lễ xong, “Thánh” bảo chỉ cần cởi hết quần áo khoả thân ra ngoài đường gặp ai nhờ chở về nhà là lành bệnh. Chị Hải xấu hổ không làm theo thì “Thánh” khuyên: “Hạ giới cứ về, ta đã làm mờ mắt thiên hạ rồi nên không ai nhìn thấy đâu”. Ngoài chị Hải còn có nhiều nạn nhân khác phải nhập viện vì tin vào “thánh nữ”. “Thánh nữ” tại đồn công an đã thú nhận: chỉ mới học hết lớp bảy thì bỏ và chưa qua một trường lớp y khoa nào, bản thân cũng không có một chút kiến thức về y học, nhưng lợi dụng sự nhẹ dạ cả tin của nhân dân, nên đã hành nghề mê tín dị đoan để trục lợi.(Tiểu luận: Vấn đề mê tín dị đoan ở Việt Nam hiện nay)

Ngoài ra, còn rất nhiều đối tượng khác, với mhững thủ đoạn tinh vi hơn, đang âm thầm hoạt động, mà vẫn chưa bị cơ quan nhà nước phát hiện. Hoạt động biến chất của  “lên đồng”, có ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Về kinh tế: Đối với những người tin tưởng vào nó, bị thiệt hại về tài sản cá nhân – gia đình; sức khỏe, tính mạng bị đe dọa, tinh thần lo lắng bất an, ảnh hưởng đến công việc, dẫn đến lao động giảm sút; đồng thời tác động đến mọi người xung quanh, làm chậm trễ tiến trình sản xuất, ảnh hưởng dến nền kinh tế xã hội. Về văn hóa: Làm cho lớp trẻ, nhìn nhận sai lệch về các giá trị văn hóa dân tộc, khó phân biệt đúng – sai; làm cho con người trở nên lười lao động, sống không lí tưởng, không hoài bảo, thiếu động lực sáng tạo. Về mặt chính trị – xã hội: Gây rối loạn trật tự xã hội, đi ngược với chủ trương chính sách của Đảng – Nhà nước ta. 

READ  Bài tiểu luận thiết kế trang phục dạ hội cho nữ thanh niên từ 18 đến 25 tuổi lấy cảm hứng từ siêu xe mazda furai - | XEMTAILIEU

1.3.2. Bói toán

Một hoạt động nổi trội khác cuả mê tín dị đoan khác đó là “bói toán”, hoạt động này dựa trên ngành khoa học – Bói toán. Bói toán, có nguồn gốc từ Trung Quốc và xuất hiện từ thời nhà Tống; nhằm giúp con người thõa mãn khao khát hiểu biết về tiền – đương – hậu vận của chính mình và người thân. Trong bói toán, có nhiều ngành nhỏ như xem tướng, xem tử vi, bói chữ,… Trong đó, xem tướng đã tách rời và phát triển thành một ngành khoa học riêng – nhân tướng học. Nhân tướng học Á Đông là tổng hợp tất cả bộ môn tâm lý học Tây Phương. Tâm lý học Tây Phương khảo sát con người qua nhiều chuyên khoa riêng rẽ. Có học phái chuyên khảo ý thức và tiềm thức (conscience et subconscience), có học phái nghiên cứu tính tình (carratérologie), có học phái chuyên khảo tác phong (behaviorisme). Sự tồn tại song song của những chuyên khoa đó cho thấy nhân học Tây Phương phân tích con người nhiều hơn là tổng hợp con người. Một khảo hướng như thế không tránh nổi khuyết điểm phiến diện. Khoa tướng Á Đông nhập chung các lĩnh vực nhân học làm một. Những nét tướng của khoa nhân học Á Đông đồng thời mang ý nghĩa tính tình lẫn tác phong. Nhưng, tướng học Á Đông không dừng chân ở đó. Khoa này còn đào sâu cả địa hạt phú quý, bệnh tật, thọ yểu, sinh kế, nghề nghiệp. Ngoài con người, Đông Phương còn nghiên cứu cả đời người.

Mặt khác, tướng học Á Đông còn tìm hiểu, qua nét tướng mỗi cá nhân, những chi tiết liên quan đến những người khác có liên hệ mật thiết với mình: đó là cha mẹ, vợ chồng, anh em, con cái, bạn bè. Sau cùng, sự giải đoán của tướng học Á Đông còn rộng rãi và táo bạo hơn hẳn khoa tâm lý Tây Phương. Từ nội tâm và liên hệ của con người, khoa tướng Á Đông tiên đoán luôn vận mạng, dám khẳng định cả sự thành bại, thịnh si, xét cả quá khứ lẫn tương lai không dừng lại ở một giai đọan nào. Về mặt quan niệm, tướng học Á Đông không có gì thần bí. Khoa này lúc nào cũng hướng về con người và đời người làm đối tượng quan sát. Sự quan sát đó đặt nền tảng trên những nét tướng con người. Tính tình và vận số khám phá được không bao giờ được suy diễn từ thần linh hay từ những ý niệm trừu tượng. Đó là quan niệm hoàn toàn nhân bản. Quan niệm này dựa trên định đề căn bản là: có ở bên trong ắt phải biểu lộ ra bên ngoài. Vì thấm nhuần tinh thần nhân bản, khuynh hướng tướng học Á Đông coi trọng phần nhân định: cái tâm con người quyết định tương lai con người. Thuật xem tướng chung quy thu gọn vào thuật xem tâm. Nhân tướng học là một nhân tâm học. Nguyên tắc chỉ đạo này được diễn tả qua châm ngôn căn bản sau đây: “Tướng tự tâm sinh, tướng tùy tâm diệt”. Vốn coi nội tâm là chân tướng, cho nên phần tướng của hình hài chỉ là những yếu tố bề ngoài hướng dẫn người xem đi vào bề sâu của tâm hồn. Và chỉ khi nào khám phá được bản thể thâm sâu của con người thì mới đạt mục đích của Tây Phương. Đây là quy tắc duy nhất, bất di bất dịch của việc học tướng và của việc xem tướng. Theo quan niệm Á Đông, con người là một sinh vật luôn luôn biến đổi.

Do đó, các nét tướng cũng biến chuyển theo tâm hồn. Quan niệm này thực tiễn và phù hợp với dịch lý (proceus dialectique) của vạn vật. Đây cũng là một ý niệm căn bản của nhân tướng học Á Đông. Khoa này, thoạt kỳ thủy đã xuất phát từ Kinh Dịch tức là sách khảo cứu về các quy luật biến hóa của vạn vật và của con người. Nói về phương pháp, nhân tướng học áp dụng lối quan sát trực tiếp con người tức là dựa vào những dữ kiện thực tại và cụ thể chứ không căn cứ vào những hệ luận huyền bí và trừu tượng. Những kết luận về tướng cách cá nhân được rút tỉa từ hình dáng của khuôn mặt, từ đặc điểm của cơ thể, từ màu sắc của nước da, từ đặc tính của mục quang, phong thái đi đứng, nằm, ngồi, cười, nói, ăn ngủ cho đến âm thanh, âm lượng… Những kết luận đó được suy diễn theo lối quy nạp. Người ta tìm những nét tướng giống nhau của những người đồng cách để thiết lập những định tắc cho những ý nghĩa của hình hài, bộ vị, tác phong. Nói như thế, có nghĩa là khoa tướng Đông Phương đã biết sử dụng phương pháp thống kê vô cùng rộng rãi, ngõ hầu tìm hiểu và định giá những nét tướng đã quan sát được trong nhiều trường hợp tương tự, qua nhiều thế hệ khác nhau.

Đây quả thật là một phương pháp nhân học dựa vào các trường hợp điển hình, không bao giờ chịu tách rời thực tế.  Sau cùng, mặc dầu nhân tướng học xếp loại  tướng người, nhưng khoa này không xem các loại đó như những khuôn mẫu cố định. Những mẫu người đặc biệt đó vẫn sinh động, đó là những mẫu người sống, biến thái qua thời gian, biểu lộ qua những nét thần, nét khí, nét sắc thay đổi từng thời kỳ. Tùy đặc điểm của thần khí sắc biến thiên đó, người ta xét đến biến cố, đến vận mệnh. Cho nên khoa tướng số Á Đông có phần tĩnh ở các hình hài, bộ vị, nhưng cũng có phần động ở thần khí sắc. Những ngọai biểu của thần khí sắc qua thời gian cũng có định tắc riêng, cũng được suy diễn từ việc quan sát, từ sự thực nghiệm, từ các thống kê, từ lối quy nạp. Tóm lại, nhân tướng học Á Đông là một bộ môn nhân văn, từ người mà ra, do người mà có và nhằm phục vụ cho con người từ trong việc “tri kỉ, tri bỉ”.(Tiểu luận: Vấn đề mê tín dị đoan ở Việt Nam hiện nay)

Tiếc rằng, cho tới nay, nền tảng nhân bản và tinh thần thực nghiệm đó chẳng còn được mấy người hiểu biết và khai triển khiến cho cái tinh hoa và giá trị của khoa này bị phai lạt dần. Lại có người lạm dụng, bất cứ việc gì cũng đánh giá người khác qua bề ngoài, dẫn đến sai lầm trong các mối quan hệ xã hội. Quá chú trọng vẻ bên ngoài, thường trao chuốt, xa hoa không phù hợp thực tế. Lại có người cố tình thay đổi ngoại hình của mình để được may mắn, như xâm mày (mày làm tướng), chấm nốt rùi (ở vị trí sinh tài lọc),…Những hành động đó điều là sai lầm, làm ảnh hưởng đến sự phát triển của nhân tướng học. Cản trở sự tiến bộ của xã hội.

Trong những kiểu bói toán, khoa Tử vi thường được coi là một trong những kiểu bói toán có tính chính xác cao và được nhiều người tín nhiệm. Trước khi khoa Tử vi ra đời, Trung Hoa đã có nhiều hình thức bói toán khác như “bốc phệ” do Văn Vương đời nhà Chu dựa trên Hà đồ (bức vẽ ở sông Hà, vẽ bát quái của vua Phục Hi) tạo thành, do sáu mươi bốn quẻ bói hợp thành. Sau đó nền triết học Trung Hoa đã đi qua nhiều luận thuyết như thuyết Âm Dương Ngũ Hành dựa trên sự tương sinh tương khắc của năm yếu tố cơ bản – kim, mộc, thủy, hỏa, thổ – nhằm giải thích đời sống và tùy từng cặp yếu tố kết hợp với nhau nó sẽ cho ra những kết quả khác nhau với độ biến thiên rất phức tạp. Đây là học thuyết có ảnh hưởng mạnh mẽ đến khoa Tử vi sau này. Đến thời Tống, nền văn minh Trung Hoa đã có bước phát triển mạnh mẽ trong việc nghiên cứu về nhân học. Nhiều triết gia đã chuyên tâm nghiên cứu về con người nhằm tìm ra những nguyên tắc về cuộc sống. Khoa Tử vi tuy ra đời chậm nhưng đã tổng hòa được những tinh hoa của bói dịch, nhân tướng học, thiên văn học của Trung Quốc cổ đại. Tử vi đã quy nạp lại cho mình một hệ thống thuật ngữ riêng. Một số quan điểm trong Tử vi tuy không được chứng minh nhưng vẫn được áp dụng trong đời sống hằng ngày, như áp dụng lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành vào y học. Với những nét đặc trưng độc đáo của mình, khoa Tử vi được nhiều nhà khoa học ngày nay xem như là một bước tiến về nhân học Trung Hoa thời Trung đại. Đối tượng nghiên cứu của Tử vi chính là con người và số mệnh con người. Con người trong Tử vi là con người gắn liền với gia đình và những mối quan hệ xã hội. Có thể coi Tử vi là một dạng thức khoa học kết hợp triết học một cách khá sơ khai và chất phác. Loại hình nghiên cứu của nó dựa trên tính trực quan và mang nhiều yếu tố triết học ở dạng sơ kỳ. Tử vi dùng nhiều phương pháp nghiên cứu kết hợp, đó là phân tích và tổng hợp. Trong đó chia thành đại phân tích và vi phân tích. Những triết lý bói toán cũng được hệ thống hóa dựa trên nền tảng của triết lý Âm Dương Ngũ Hành. Tử vi vận động theo các vì sao ở mười can, mười hai chi dịch chuyển và biến đổi theo lý thuyết Bát Quái, tương tác với nhau theo thuyết Âm Dương Ngũ Hành.

 Khoa Tử vi vừa mang tính khoa học thống kê vừa mang tính bói toán và có phần dị đoan. Nếu xét theo những điều kiện cần thì khoa Tử vi có thể được coi là một khoa học theo một mặt nào đó. Khoa Tử vi có hệ thống lý luận riêng với những thuật toán riêng và cách tiếp cận nghiên cứu nhân học độc đáo. Ngoài ra, khoa Tử vi cũng có tính lập luận và logic học rõ ràng từ đó đưa ra được những trải nghiệm và chứng minh từ thực tế đời sống. Các cung trên lá số Tử vi là những hàm số căn bản. Trong các cung có Chính tinh và Phụ tinh. Những ngôi sao này tương tác với nhau theo quy luật âm Dương Ngũ Hành khiến một lá số Tử vi trở thành một “đa hàm số” với nhiều biến số biến đổi rất phức tạp. Tuy nhiên, điều đó cũng phần nào thể hiện bản mệnh của con người cũng vốn thật phức tạp, không có một phản ứng nhất định nào theo nguyên lý của lý trí hay tình cảm. Nhưng điều đó cũng khiến nhiều người trong khoa học cảm thấy đặt niềm tin vào Tử vi là không cần thiết. Khoa Tử vi là một phương pháp, một công thức, một đồ biểu nhưng nó không đo lường được về lượng cũng như về chất một cách chính xác. Nó là một hệ thống tương quan giữa các yếu tố phức tạp, và khi đưa ra không thể lý giải một cách máy móc hay bằng một ước đoán cụ thể nào. Khoa Tử vi khiến người ta nghĩ về sự liên hệ giữa các yếu tố trong cuộc đời và kết luận về một lá số Tử vi đòi hỏi phải là kết luận dựa trên sự tổng hợp các nhận định cục bộ. Con người và bản mệnh trong khoa Tử vi là một con người toàn diện, bao hàm cả thể chất lẫn tinh thần, cả di truyền lẫn bản tính cá nhân, cả môi trường gia đình và xã hội, cả công danh lẫn tài lộc. Con người đó chính là “sự tổng hòa của những mối quan hệ xã hội”. Khoa Tử vi không tách rời các phương diện mà xem xét con người ở một thế giới quan tổng hợp, có tương tác với môi trường xã hội chứ không phải biệt lập ở một phương diện cụ thể.(Tiểu luận: Vấn đề mê tín dị đoan ở Việt Nam hiện nay)

 Tuy nhiên, cũng có những thiếu hụt trong chính khoa Tử vi khiến nhiều người cho rằng khoa Tử vi không phải là một khoa học dù vẫn cần phải nhìn nhận giá trị của nó. Khoa Tử vi chỉ là một quá trình xét đoán dựa trên những hàm số và biến số được thể hiện bằng những ngôi sao trên lá số Tử vi. Chính vì vậy, tính chính xác của Tử vi không được bảo đảm bao giờ. Việc mỗi sao khi ở một cung lại mang những ý nghĩa khác nhau và ý nghĩa đó thay đổi khi nó kết hợp với những sao khác nhau tạo thành nhiều luận đoán khác nhau trên một lá số Tử vi khiến tính huyền bí của Tử vi học càng nhiều hơn. Cách tính giờ của khoa Tử vi cũng có nhiều thay đổi khiến người ta càng nghi ngờ vào tính xác thực của Tử vi. Từ xưa, người ta tính giờ dựa vào mặt trời. Kể từ khi ảnh hưởng của phương Tây, thời gian trong ngày được chia làm hai mươi bốn múi. Quy ước này khác với quy ước của khoa Tử vi chia một ngày làm mười hai múi.

READ  Bài tiểu luận Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam

Khoa Tử vi cũng có hạn chế về việc coi người tu hành không nằm trong vòng cung Mệnh nên không xem được. Nó cũng không giải thích được sự khác nhau giữa số mệnh của những người sinh cùng thời điểm. Tai hại hơn nữa, từ việc sùng bái Tử vi dẫn đến việc một số gia đình cho mổ lấy trẻ em vào giờ tốt để có lá số Tử vi tốt là một việc làm mù quáng, đầy mê tín và thiếu khoa học. Thiết nghĩ khoa Tử vi là một nhánh nghiên cứu nhân học khá lý thú. Nó dựa trên các sao trong Tử vi để mệnh danh một yếu tố trong con người và sự tương tác qua lại giữa chúng nhằm đưa ra những nhận định dựa trên những suy đoán qua thống kê về số phận và tính cách con người. Nếu ta biết gạn đục khơi trong, nhìn nhận những giá trị khoa học và triết học cơ bản cũng như loại trừ những yếu tố mê tín dị đoan của khoa Tử vi thì đây chính là một trong những vấn đề khoa học rất đáng được quan tâm nghiên cứu một cách nghiêm túc.

Tuy nhiên, trong xã hội lại có một bộ phận không hiểu biết nhiều về thuật bói toán, lại tự tổ chức “hành nghề” với mục đích thu lợi cho bản thân. Lợi dụng lòng tin của người dân, chúng thực hiện nhiều thủ đoạn bịp bọm, bất chấp hậu quả.

Nghề “làm thầy” ngày một nhiều người tham gia hơn. Cụ thể như ở

xã Vĩnh Khúc, chỉ tính riêng thôn Vĩnh Bảo có tới gần hai mươi “thầy”. Đây chính là trung tâm của “khu công nghiệp” mê tín dị đoan. Tuy nhiên, trong làng, chẳng ai xem bói các “thầy”. Chẳng hiểu vì “bụt nhà không thiêng” hay do biết quá rõ mánh lới lừa đảo của các “thầy” mà người trong làng lại tìm đến nơi khác để xem bói. “Nghề” bói bắt đầu xuất hiện ở Vĩnh Khúc từ những năm 1980 và được “khai sinh” từ một nhân vật tên là Bà Nạp, một bà cụ bị mù. “Nghề” này đã biến gia đình nghèo rớt mùng tơi của Bà Nạp trở nên khá giả, sung túc. Không ít người “đánh hơi” thấy bà làm ăn được đã kéo đến xin làm đệ tử. Một số còn cắp sách, cắp bút tìm đến “sư phụ” để “tầm sư học đạo” để quay về quê hương hành nghề. Từ đó, Vĩnh Khúc trở thành “khu công nghiệp” của bói toán, mê tín dị đoan.

 Mặc dù, đã có sự can thiệp của chính quyền, nhưng những tổ chức này vẫn hoạt động, ngày một nhiều hơn, và có ở khắp mọi nơi; dưới nhiều hình thức khác nhau. Hoạt động này, gây thiệt hại về kinh tế cho người dân, ảnh hưởng đến sinh hoạt đời thường của họ,…Gây nên tư tưởng sống hưởng thụ, lười lao động, hoặc bi quan trước hoàn cảnh khó khăn, thiếu ý chí sinh tốn ở một bộ phận của xã hội; và do đó cản trở sự phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội của đất nước.

Chính các hoạt động biến chất của “lên đồng”, bói toán, đã làm mất trật tự xã hội, gây nên nhiều chuyện dở khóc dở cười, bao gia đình tan vỡ,… Do đó, đòi hỏi có những biện pháp thiết thực, bày trừ triệt để những tệ nạn này.

Chương 2 MỘT SỐ GIẢI PHÁP BÀY TRỪ TỆ NẠN MÊ TÍN DỊ ĐOAN Ở NƯỚC TA

2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tệ nạn mê tín dị đoan

Mê tín dị đoan có nhiều ảnh hưởng, trong tiến trình xây dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên, đây là vấn đề hết sức nhạy cảm và phức tạp, nên trong quá trình xử lí cần khéo léo, thận trọng, tỉ mỉ và chuẩn xác.(Tiểu luận: Vấn đề mê tín dị đoan ở Việt Nam hiện nay)

 Quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng là một trong những quyền chính đáng của con người. Hạn chế và vi phạm quyền ấy là đi ngược với xu thế của tiến bộ xã hội. Bác Hồ luôn giáo dục mọi người và bản thân Bác luôn gương mẫu trong việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng của đồng bào có đạo. Sự tôn trọng ấy không chỉ thể hiện trên văn bản, lời nói mà còn trên cả hoạt động thực tiễn của Bác. Chủ tịch Hồ Chí Minh nghiêm khắc phê phán những phần tử lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo, những kẻ hành nghề mê tín dị đoan, phê phán những việc làm sai chủ trương chính sách tôn giáo của Đảng và chính phủ.

Đảng và Nhà nước ta đã mở cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống mới ở khu dân cư”, trong đó có nội dung đấu tranh phòng, chống và từng bước loại trừ mê tín, dị đoan ra khỏi đời sống xã hội. Đồng thời, xác định việc hành nghề mê tín, dị đoan là một tội phạm (hành vi nguy hiểm cho xã hội), quy định tại Điều 247  Bộ Luật Hình sự năm 1999, nội dung cụ thể như sau:

  1. Người nào dùng bói toán, đồng bóng hoặc các hình thức mê tín, dị đoan khác gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
  2. Phạm tội làm chết người hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.
  3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng.

Để nhận biết “tội hành nghề mê tín, dị đoan” cần nắm vững một số vấn đề liên quan đến tội phạm này.

Thứ nhất: Mặt khách quan của tội phạm, theo các văn bản hướng dẫn Bộ luật Hình sự 1999, người phạm tội hành nghề mê tín, dị đoan là người dùng những thủ đoạn lừa bịp, lợi dụng sự lạc hậu của người khác nhằm mục đích vụ lợi hoặc các mục đích khác. Hành nghề mê tín dị đoan là hành nghề dưới các hình thức như bói toán, lên đồng hoặc các hình thức mê tín dị đoan khác, gây ảnh hưởng đến nếp sống văn minh, trật tự công cộng hoặc gây ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản của người khác. (Bói toán là đoán những việc của quá khứ, hiện tại và tương lai của người khác, không có căn cứ khoa học; lên đồng là hình thức mê tín dị đoan mà người nào đó làm giả như có thần thánh, ma quỷ nhập vào mình rồi phán bảo những điều nhảm nhí để người khác tin theo; các hình thức mê tín dị đoan khác như: xem số, gọi hồn, xem tướng, xóc thẻ, yểm bùa, cúng ma, bắt tà trừ ma, đội bát nhang…).

Thứ hai: Mặt chủ quan của tội phạm, tội hành nghề mê tín, dị đoan được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý gián tiếp (mục đích, động cơ phạm tội là vụ lợi cá nhân).

Chủ thể của “tội hành nghề mê tín, dị đoan” là những người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo luật định (đủ mười sáu tuổi trở lên).

Đại hội X của Đảng nhấn mạnh: “Đồng bào các tôn giáo là bộ phận quang trọng của khối đại đoàn kết dân tộc. Thực hiện nhất quáng chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng theo hoặc không theo tôn giáo của công dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo. Động viên giúp đỡ đồng bào theo đạo và các chức sắc, tôn giáo sống “tốt đời, đẹp đạo”. Các tổ chức tôn giáo hoạt động theo pháp luật được pháp luật bảo hộ. Thực hiện tốt các chương trình phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa của đồng bào các tôn giáo. Đấu tranh ngăn chặn các hoạt động mê tín dị đoan, các hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo là phương hại đến lợi ích chung, vi phạm quyền thự do tôn giáo của công dân.”[4, 122-123].

2.2. Một số giải pháp bày trừ tệ nạn mê tín dị đoan

2.2.1. Cần phân biệt rõ giữa tự do tín ngưỡng và mê tín dị đoan

Tự do lựa chọn tín ngưỡng là quyền của mỗi công dân và quyền này được pháp luật bảo vệ.

Mê tín dị đoan là tệ nạn xã hội, làm con người trở nên mê mụi, thiếu ý chí phấn đấu, là “vết tì” cản trở sự phát triển đất nước.

Quyền tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng của công dân Việt Nam được quy định trong Hiến pháp và được bảo đảm trên thực tế. Hiến pháp năm 1992 của nước CHXHCN Việt Nam, điều 70 ghi rõ: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào; các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”.(Tiểu luận: Vấn đề mê tín dị đoan ở Việt Nam hiện nay)

Nhưng do mập mờ chưa phân định rõ, đâu là tự do tín ngưỡng được pháp luật bảo hộ, đâu là mê tín dị đoan đang bị bày trừ, mà nhiều người dân đã vô tình tiếp tay cho những tổ chức mê tín dị đoan hoạt động.

Do đó, cần phân biệt rõ tự do tín ngưỡng và mê tín dị đoan, để cả nước ta đồng lòng bày trừ triệt để tệ nan mê tín dị đoan – tệ nạn đe doa sự phát triển đất nước; tạo lòng tin cho các tín đồ để họ an tâm sống “tốt đời đẹp đạo”.

2.2.2. Nâng cao trình độ hiểu biết của nhân dân, vạch trần bộ mặt bịp bợm của bọn hoạt động mê tín dị đoan

Tệ nạn mê tín dị đoan đang ngày càng “hoành hành” dữ dội; tiếp diễn phức tạp trong đời sống xã hội ở nước ta. Mê tín, dị đoan là tệ nạn rơi rớt lại từ chế độ cũ, nhưng đến nay vẫn dai dẳng “ăn sâu, bám rễ” trong suy nghĩ của nhiều người. Hiện tượng mê tín xuất hiện ở nhiều đối tượng, nhiều thành phần, lứa tuổi khác nhau. Chẳng hạn, việc xem ngày, giờ tốt xấu rất phổ biến, không chỉ với những việc lớn như làm nhà, cưới hỏi mà tất thảy mọi việc lớn nhỏ, nhiều người vẫn có thói quen chọn “ngày lành, tháng tốt”. Cá biệt, có người đến mức cắt tóc, cạo râu cũng tránh những ngày đầu tháng. Nhà nước tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của người dân, song không khuyến khích mọi người tin và làm theo những điều mê muội. Cán bộ, đảng viên cần phải gương mẫu trong việc đẩy lùi tệ mê tín, dị đoan. Có cán bộ lãnh đạo khi tuyển chọn, cất nhắc, bổ nhiệm cán bộ không căn cứ vào năng lực, phẩm chất mà lại lựa chọn người hợp tuổi, hợp mạng. Việc ký kết hợp đồng làm ăn nhiều khi cũng máy móc chọn ngày, giờ, địa điểm theo phong thủy. 

Ở địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa, đời sống của người dân còn nghèo, trình độ dân trí hạn chế, cho nên trở thành mảnh đất màu mỡ cho sự phát triển của tệ nạn mê tín, dị đoan. Khá nhiều hủ tục lạc hậu, man rợ vẫn tồn tại ở một số bản, làng có nhiều bà con đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Không ít nơi, việc tổ chức ma chay, cưới xin vẫn tiến hành theo thủ tục rườm rà, rắc rối, thậm chí mê muội. Có nơi, đến nay còn duy trì hủ tục chôn cất người chết ngay trong nhà; người ốm, người mắc bệnh không đến trạm y tế, bệnh viện mà phó mặc số phận cho thầy mo, thầy cúng, thầy tướng số. Đội ngũ thầy lang bốc thuốc, trị bệnh xuất hiện ở nhiều địa phương. Có thầy lang chữa bệnh bằng các biện pháp rất thiếu cơ sở, như làm bùa ngải, cho người bệnh uống nước lã, giẫm đạp lên người…

Không chỉ những người lớn tuổi mà nhiều thanh niên, học sinh, sinh viên cũng bị ảnh hưởng nặng nề của tệ mê tín, dị đoan. Đầu năm mới, nhiều sinh viên không chú tâm việc học mà chăm chỉ lên chùa lễ bái, rút thẻ cầu may với mong muốn thi cử trót lọt, quay cóp không bị phát hiện. Nhiều em cầu kỳ tìm chọn người xông nhà, nhắn tin chúc năm mới với hy vọng gặp may cả năm. Có em duy trì việc ăn kiêng cẩn thận trước kỳ thi, khi đi thi thì lựa chọn giờ xuất hành, tìm người đón ngõ để nhằm đạt điểm cao. Tệ nạn mê tín, dị đoan lây lan, phát triển trong lớp trẻ là rất đáng lo ngại.

Mặt khác, thủ đoạn của bọn tổ chức hoạt động mê tín dị đoan ngày càng trở nên tinh vi xảo quyệt. Do đo, nâng cao trình độ nhận thức người dân, vạch trần bộ mặt bịp bợm của bọn hoạt động mê tín dị đoan, là vấn đề cần được quan tâm.(Tiểu luận: Vấn đề mê tín dị đoan ở Việt Nam hiện nay)

2.2.3. Đề cao pháp luật nhà nước, tăng cường quản lí xã hội

Nhiều người chưa có hiểu biết rõ ràng về pháp luật, dẫn đến không chấp hành hoặc xem thường những quy định của pháp luật. Đặc biệt là vấn đề tự do tín ngưỡng và mê tín dị đoan.

Trong xã hội nước ta, vẫn còn tồn tại một số thành phần bất hảo, những thế lực thù địch trong và ngoài nước luôn tìm cách chống phá nhà nước ta. Chúng tìm mọi cách, lợi dụng những “kẻ hở” của pháp luật nhà nước ta để gây rối.  

Do đó, đề cao pháp luật tăng cường quản lí xã hội là một vấn đề cấp bách cần được thực hiện, để bài trừ tệ nạn mê tín dị đoan ra khỏi xã hội nước ta.

Traloitructuyen.com cũng giúp giải đáp những vấn đề sau đây:

  • Ví dụ về mê tín dị đoan
  • Thực trạng mê tín dị đoan hiện nay
  • Chuyện mê tín dị đoan
  • Một số biểu hiện của mê tín dị đoan
  • Câu hỏi về mê tín dị đoan
  • Kể tên những hành vi mê tín dị đoan
  • Em phải làm gì để bài trừ tệ nạn mê tín dị đoan
  • Tệ nạn mê tín dị đoan là gì
See more articles in the category: Tiểu luận