Các dạng đề nghị luận văn học thường gặp – | XEMTAILIEU

Or you want a quick look:

CÁC DẠNG ĐỀ NGHỊ LUẬN VĂN HỌC THƯỜNG GẶP

Thống kê các dạng đề nghị luận văn học, dàn ý của từng kiểu bài.

1. Dạng đề Nghị luận về bài thơ, đoạn thơ

2. Dạng đề phân tích cảm nhận về đoạn trích văn xuôi

3. Dạng đề nghị luận về tình huống truyện

4. Dạng đề phân tích/ cảm nhận nhân vật trong tác phẩm…

5. Dạng đề so sánh, đối chiếu: hai nhân vật, hai chi tiết, hai tư tưởng, hai đoạn thơ, hai

hay nhiều bài thơ…

6. Dạng đề bình luận một ý kiến bàn về văn học.

7. Dạng đề nghị luận hai ý kiến bàn về văn học.

8. Dạng đề tích hợp nghị luận xã hội : Phân tích, cảm nhận về tác phẩm, sau đó liên hệ

thực thế. Đây là kiểu bài nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học

Dàn ý của từng kiểu bài :

1. Cách làm dạng đề nghị luận về bài thơ, đoạn thơ

Có các kiểu ra đề như :

1/ Phân tích toàn bộ bài thơ.

2/Phân tích một đoạn thơ.

3/ Phân tích một khía cạnh trong đoạn thơ, bài thơ.

4/ Phân tích một hình ảnh, chi tiết trong bài thơ.

5/So sánh giữa hai bài thơ, hai đoạn thơ.

6/Nghị luận ý kiến bàn về bài thơ, đoạn thơ

Dàn ý chung cho dạng đề nghị luận về bài thơ, đoạn thơ.

Mở bài :

[external_link_head]

Tài liệu được biên soạn bởi cô Thu Trang

Trường THPT Tạ Uyên, Yên Mô, Ninh Bình

+ Giới thiệu tác giả và bài thơ, đoạn thơ cần phân tích ( chép nguyên văn đoạn thơ trong

đề bài, nếu là đoạn thơ dài thì chỉ cần chép hai câu đầu, chấm chấm, rồi chép câu cuối).

+ Giới thiệu ý kiến bàn về bài thơ ( nếu đề bài yêu cầu nghị luận về ý kiến )

+ Giới thiệu vấn đề nghị luận.

+ Nếu là dạng đề so sánh hai bài thơ, hai đoạn thơ thì mở bài phải giới thiệu cả hai tác giả

và hai bài thơ.

Phần mở bài chỉ cần nêu ngắn gọn nét chính về tác giả tác phẩm ( vài dòng )

Thân bài :

+ Khái quát về phong cách tác giả, hoàn cảnh sáng tác, nội dung chính, … của bài thơ

+ Nêu vị trí đoạn thơ, thể thơ, chú ý âm điệu, giọng điệu

+ Phân tích cụ thể :

Có thể bổ ngang : phân tích từng khổ, từng dòng, nếu là thơ Đường luật thì phân tích theo

từng cặp Đề – Thực- Luận -Kết .Riêng đối với thơ tứ tuyệt (ví dụ một số bài thơ của Hồ

Chí Minh trong Nhật kí trong tù), cách thức thông thường là chia theo cấu trúc: khai,

thừa, chuyển, hợp; hoặc chia thành hai câu đầu và hai câu cuối (tuỳ từng bài cụ thể).

Có thể bổ dọc bài thơ : Phân tích theo hình tượng, theo nội dung xuyên suốt bài thơ.Đưa

các nội dung chính của bài thơ, đoạn thơ thành các luận điểm lớn, nếu đề yêu cầu cảm

nhận đoạn thơ, câu thơ, thì các em chia nhỏ các nội dung có trong đoạn, trong câu, biến

chúng thành các luận điểm lớn để đi sâu cảm nhận.

Chú ý những hình ảnh biểu tượng, những lối nói ví von so sánh, những biện pháp nghệ

thuật tiêu biểu . Khi phân tích thì thao tác giảng giải, cắt nghĩa là quan trọng nhất, nhằm

giúp cho người đọc hiểu được ý nghĩa của các hình ảnh biểu tượng, ý nghĩa của từ ngữ,

câu thơ, đoạn thơ.

Trong quá trình phân tích, luôn luôn hướng đến sự tổng hợp, khái quát ở từng cấp độ sao

cho thích hợp để rồi tiến tới những khái quát lớn của toàn bài. Phân tích phải đi kèm với

đánh giá và bình luận, tránh diễn nôm bài thơ.Mỗi đoạn văn các em nên viết theo cách

diễn dịch hoặc quy nạp, nhớ trình bày rõ câu chốt, câu diễn giải, câu dẫn chứng, câu khái

quát nội dung đoạn, câu chuyển đoạn linh hoạt.

Kết bài : Đánh giá khái quát về bài thơ, đóng góp riêng của tác giả

Tài liệu được biên soạn bởi cô Thu Trang

Trường THPT Tạ Uyên, Yên Mô, Ninh Bình

Những đoạn thơ trọng tâm trong chương trình thi THPT Quốc Gia

– Tây Tiến – Quang Dũng :Đoạn 1-2-3

– Việt Bắc – Tố Hữu:

8 câu đầu bài thơ Việt Bắc

Đoạn: Nhớ gì như nhớ người yêu…

Chày đêm nện cối đều đều suối xa

Đoạn Bức tranh tứ bình : Ta về mình có nhớ ta…. Thuỷ chung



Đoạn Việt Bắc trong kháng chiến : Những đường Việt Bắc của ta…Đèo De núi

Hồng

– Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm (Trích trường ca Mặt đường khát vọng)

Bài này dài, các em cần chú ý những đoạn tiêu biểu sau :

Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi….Đất nước có từ ngày đó

Đất là nơi anh đến trường…Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ

[external_link offset=1]

Trong anh và em hôm nay…làm nên đất nước muôn đời

Em ơi em hãy nhìn rất xa….đất nước của ca dao thần thoại

– Sóng – Xuân Quỳnh : Bài này khổ nào cũng quan trọng, có thể phân tích từng khổ,

hoặc phân tích cả bài để chứng minh nhận định.

– Đàn ghi ta của Lor-Ca – Thanh Thảo: Cả bài, chú ý hình tượng nhân vật Lor- ca

Ví dụ minh họa : Phân tích bức tranh tứ bình- Việt Bắc

Ta về, mình có nhớ ta ?

Ta về ta nhớ những hoa cùng người.

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi,

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng,

Tài liệu được biên soạn bởi cô Thu Trang

Trường THPT Tạ Uyên, Yên Mô, Ninh Bình

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.

Ve kêu rừng phách đổ vàng,

Nhớ cô em gái hái măng một mình.

Rừng thu trăng rọi hòa bình,

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

Các ý chính cần đạt : – Hai dòng thơ đầu là lời khẳng định vể nỗi nhớ thương da diết và

tình cảm thủy chung của người ra đi dành cho quê hương Việt Bắc. Nỗi nhớ đã làm sống

dậy trong tâm tưởng hình ảnh thiên nhiên, con người nơi chiến khu cách mạng.

– Thiên nhiên Việt Bắc đẹp trong sự đan cài với vẻ đẹp của con người “hoa” cùng

“người”: Đoạn thơ có bốn cặp câu lục bát: câu 6 miêu tả thiên nhiên, câu 8 miêu tả con

người.

– Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên trong vẻ đẹp bốn mùa:

+ Mùa đông trên nền xanh bạt ngàn cây lá bỗng bất ngờ hiện lên sắc màu đỏ tươi của hoa

chuối. Màu đỏ ấy làm ấm cả không gian

+ Mùa xuân với sắc trắng của hoa mơ- loài hoa đặc trưng của Việt Bắc, 1 màu trắng miên

man, tinh khiết, đẹp đến nao lòng.

+ Mùa hè, với tiếng ve kêu vang ngân và sắc vàng của rừng phách.

+ Mùa thu với ánh trăng chan hòa trên mặt đất, đem lại không khí bình yên.

– Hình ảnh con người đã trở thành tâm điểm của bức tranh tứ bình, tạo nên sức sống của

thiên nhiên cảnh vật. Những con người Việt Bắc hiện về trong nỗi nhớ thật thân quen,

bình dị, thầm lặng trong những công việc của đời thường:

+ Mùa đông trở nên ấm áp với “ánh nắng dao giài thắt lưng”.

+ Bức tranh mùa xuân hòa cùng với dáng vẻ cần mẫn chút chăm của “người đan nón”

+ Bức tranh màu hè hoá dịu dàng với hình ảnh cô em gái hái măng một mình

+ Mùa thu là tiếng hát nghĩa tình thủy chung của con người cất lên giữa đêm trăng.

– Đoạn thơ mang nét đẹp cổ điển mà hiện đại

Tài liệu được biên soạn bởi cô Thu Trang

Trường THPT Tạ Uyên, Yên Mô, Ninh Bình

+ Vẻ đẹp cổ điển: Bức tranh tứ bình hiện lên qua những nét gợi tả

+ Vẻ đẹp hiện đại: Hình ảnh con người đã trở thành tâm điểm, tạo nên vẻ đẹp, sức sống

của bức tranh.

Bài làm :

“Việt Bắc” là một trong những tập thơ hay nhất của Tố Hữu. Tập thơ này chủ yếu viết về

thời kỳ kháng chiến chống Pháp, trong đó “Việt Bắc” được xem là đỉnh cao của thơ Tố

Hữu. Bài thơ là một bức tranh trữ tình mà hoành tráng, bao quát cả một diện lớn vé thời

gian suốt 15 năm “Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh”, trên một không gian là toàn

bộ Việt Bắc, kéo tràn sang Tây Bắc. Bút cảa Tố Hữu ở bài thơ này tỏ ra rất dồi dào. “Việt

Bắc” là một bài thơ dài, không phải đoạn nào viết cũng đểu tay. Nhưng có những đoạn

quả thật là đặc sắc mà ở đó người đọc thấy được vẻ đẹp của ngòi bút Tố Hữu:

Ta về, mình có nhớ ta ?

Ta về ta nhớ những hoa cùng người.

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi,

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng,

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.

Ve kêu rừng phách đổ vàng,

Nhớ cô em gái hái măng một mình.

Rừng thu trăng rọi hòa bình,

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

Tố Hữu được xem là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng. Nói đến Tố Hữu là nói đến một

tiếng thơ trữ tình – chính trị. Suốt cả đời mình, Tố Hữu đã viết về lý tưởng lớn, lẽ sống

lớn, niềm vui lớn, tình cảm lớn của người cách mạng. Người ta vẫn nói ở Tố Hữu có sự

kết hợp hài hoà giữa yếu tố cổ điển, dân gian và yếu tố cách mạng hiện đại. Có lẽ vì thế

mà thơ Tố Hữu có khả năng thấm sâu vào tâm hồn quần chúng nhân dân. Cho đến nay,

Tố Hữu đã cho xuất bản 6 tập thơ: “Từ ấy”, “Việt Bắc”, “Gió lộng”, “Ra trận”, “Máu

và hoa’, và gần đây nhất là “Một tiếng đờn’. Những tập thơ ấy đều gắn liền, tương ứng

Tài liệu được biên soạn bởi cô Thu Trang

Trường THPT Tạ Uyên, Yên Mô, Ninh Bình

với những chặng đường lớn của cách mạng Việt Nam. Có lẽ vì thế mà có người đã gọi

thơ Tố Hữu là cuốn “biên niên sử bằng thơ của cách mạng Việt Nam”. Nghĩa là là cho

đến nay, Tố Hữu đã hoàn chỉnh một phong cách thơ của mình, một cuộc đời thơ của

mình.

Đoạn thơ trên là một trong những đoạn tiêu biểu của bài VB. Tất cả chỉ có 10 câu,

tập trung nói đến một chủ đề nhưng nó đã đạt đến sự toàn bích. Đoạn thơ này cđ thể

chia làm hai phần: phần đầu gồm hai câu. Nó như lời mở đầu đưa đẩy trong các cuộc hát

giao duyên. Trong đó người con trai (người về xuôi) vừa ướm hỏi lòng người ở lại, vừa

khẳng định những tình cảm trong lòng mình. Phần sau gồm 8 câu chia thành 4 cặp lục

bát. ở mỗi cặp, cứ câu lục tả hoa thì câu bát tả người. Nó là một bức tranh tứ bình diễn tả

hoa và người Việt Bắc trong bốn mùa bằng những nét đặc trưng nhất của miền đất này.

Có thể nói, cảnh sắc thiên nhiên Việt Bắc tuy được mô tả rải rác trong cả bài thơ nhưng

dường như nó được kết tinh vào đoạn này một cách hàm súc, cô đúc nhất.

Chúng ta biết bài thơ được viết theo hình thức hát đối đáp của dân gian. Hai câu thơ đầu,

về chức năng đối đáp, là hai

câu đưa đẩy để nối liền các mảng đề tài trong một cuộc hát. Đó là người con trai ướm hỏi

người con gái:

Ta về mình có nhó ta

Lời hỏi vẫn có cái giọng tình tứ, với cách xưng hô ta mình – mình ta. Nhưng quan trọng

hơn vẫn là ở sự cao nhã trong tình cảm. Ta về chẳng biết mình có nhớ ta không, nhưng

ngay cả khi mình không nhớ ta thì ta vẫn cứ nhớ mình. Mà nỗi nhớ mới duyên dáng và tế

nhị làm sao:

Ta về ta nhớ những hoa cùng người.

Như vậy là người ra đi khẳng định tình cảm của mình bằng nỗi nhớ mà là nhớ về những

gì đẹp nhất của Việt Bắc. Đó là hoa và người. Trong nỗi nhớ của người đi hai hình ảnh

này là đồng hiện, soi chiếu vào nhau. Hoa là thứ đẹp nhất của thiên nhiên, còn người ta

lại là “hoa của đất”. ‘Vi vậy, hễ nhớ đến người thì hiện bóng hoa, hễ nhớ về hoa thì hiển

hiện hình người. Hoa và người không thể tách rời. Mà nói với một người con gái, lại nói

“hoa cùng người” thì đó chẳng phải là một lời đánh giá kín đáo hay sao?

Và như thế, chủ đề của đoạn thơ đã được giới thiệu. Đó là hoa cùng người Việt Bắc.

READ  Soạn văn 10 bài: Luyện tập viết đoạn văn nghị luận trang 140 sgk

Tài liệu được biên soạn bởi cô Thu Trang

Trường THPT Tạ Uyên, Yên Mô, Ninh Bình

Tranh tứ bình là một trong những loại hình rất phổ biến trong nghệ thuật trung đại. Nó

thường là một bộ tranh gồm bốn bức mô tả bốn mặt của một đối tượng nào đấy. Vỉ vậy,

tự nó đã cố tính hoàn chỉnh riêng. Thậm chí tự nó là một cách khái quát riêng, một thế

giới riêng. Ta đã từng gặp những bộ tứ bình như: tùng – trúc – cúc – mai, xuân – hạ – thu

– đông (tứ quý), ngư – tiều – canh – mục, long – li – quy – phượng, cầm – kỳ – thi –

hoạ… Trong thơ ca chúng ta cũng từng gặp rất nhiều, đó là cảnh “Trông bốn bể” trong

“Chinh phụ ngâm”, đoạn “buồn trông” khi Kiều ở lầu Ngưng Bích, đoạn thơ mô tả bốn

cảnh thuộc thời oanh liệt của con hổ trong “Nhớ rừng” của Thế Lữ… Những bức tranh tứ

bình này giúp cho nhà thơ mô tả được một cách toàn diện và thâu tóm những gì là đặc

trưng nhất. Tố Hữu đã sử dụng lối vẽ tranh tứ bình khá nhuần nhuyễn trong nhiều bài,

đoạn thơ này có thể xem là bộ tranh tứ bình tứ quý về “hoa và người” của 4 mùa Việt

Bắc.

Mở đầu là một hình ảnh có tính khái quát, trong đó Việt Bắc hiện lên như một miền quê

thật lặng lẽ:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Gam màu cơ bản của bức tranh này là màu xanh. Đó là một màu xanh mênh mông và

trầm tĩnh của rừng già. Nó gợi ra hình ảnh một xứ sở êm đềm, lặng lẽ, tĩnh. Nhưng trên

cái nền xanh ấy, chúng ta nhìn thấy hình ảnh hoa chuối rừng bập bùng cháy như những

bó đuốc. Ai đã biết hoa chuối nở, sẽ thấy rằng tuy tác giả chỉ viết hai chữ ” đỏ tươi”

nhưng cũng đủ gợi cho chúng ta biết hoa chuối đã làm sáng lên cả một góc rừng. Thế là

hoa chuối làm cho cảnh rừng trở nên sống động hơn. Đồng thời hình ảnh hoa chuối lại

được tô điểm thêm những tia nắng ở câu thứ hai càng làm cho không khí vốn trầm mặc ở

nơi này trở nên tươi sáng và linh động. Trên nền cảnh ấy, hình ảnh con người xuất hiện:

“Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”. Người đứng trên đỉnh đèo cao, ánh nắng chiếu vào

lưỡi dao trên thắt lưng, loé sáng. Nó gợi được một tư thế vững chãi, tự tin của người làm

chủ núi rừng. Tố Hữu thường mô tả con người trong tư thế ấy. Trong bài “Lên Tây Bắc”

tác giả có viết:

Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều

Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo

Núi không đè nổi vai vươn tới

Lá nguỵ trang reo với gió đèo.

Tài liệu được biên soạn bởi cô Thu Trang

Trường THPT Tạ Uyên, Yên Mô, Ninh Bình

Cũng là một hình ảnh ấy nhưng ở đoạn thơ trên, Tố Hữu phải viết bằng 4 câu thơ 28 chữ.

Còn ở bài Việt Bâc này dường như nhà thơ đâ cô đúc vào 8 chữ. Nhà thơ không vẽ kỹ mà

chỉ chấm phá vài nét song cũng đủ cho ta hình dung khá rõ vê hình tượng. Vậy là, tương

ứng với một cảnh hoa là một dáng điệu người, mỗi dáng điệu toát lên một phẩm chất của

người Việt Bắc.

Bức tranh thứ hai:

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Đến đây nên xanh trầm tĩnh đã nhường chỗ cho nền trắng tinh khiết của hoa mơ rừng.

Hai chữ “trắng rừng” khiến cảnh rừng như bừng sáng. Phải nói rằng đây là một hình ảnh

có sức ám ảnh lớn đối với hồn thơ Tố Hữu. Việt Bắc trong nỗi nhớ của Tố Hữu dường

như không thể thiếu được sắc hoa này. Về sau, trong bài “Theo chân Bác”, Tố Hữu sẽ

viết:

Ôi sáng xuân nay, xuân 41

Trắng rừng biên giói nở hoa mơ

Bác về. Im lặng. Con chim hót

Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ.

Trên nễn cảnh ấy hiện ra hình ảnh người Việt Bắc trong một công việc thầm lặng: “Nhớ

người đan nón chuốt từng sợi gịang”. Hai chữ “chuốt từng” gợi ra được dáng điệu cần

mẫn, cẩn trọng và tài hoa. Không biết người đan nón kia gửi vào từng sợi giang nỗi niềm

gì, ước mơ gì?

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình.

Trong những bức tranh trên, chúng ta mới chỉ thấy màu sác, đường nét và ánh sáng. Đến

đây chúng ta còn nghe thấy được âm thanh của rừng, đó là tiếng nhạc ve. Nhạc ve làm

cho không khí trở nên xao động. Phải nói rằng trong các bức tranh ở đây thi Việt Bắc

mùa hè là đặc sắc hơn cả. Trong câu thơ, chúng ta thấy dường như có một phản ứng dây

chuyền chạy từ đầu đến cuối câu thơ. Ve kêu gọi hè đến, hè đến làm cho những rừng

phách ngả sang màu vàng. Ai đã lên Việt Bắc, dễ thấy hình ảnh kỳ lạ của những cánh

rừng phách. Trong những ngày cuối cùng của mùa xuân, những cây phách vẫn là màu

Tài liệu được biên soạn bởi cô Thu Trang

Trường THPT Tạ Uyên, Yên Mô, Ninh Bình

xanh, nụ hoa vẫn náu kín trong những kẽ lá «, Nhưng khi những tiếng ve đầu tiên của

mùa hè cất lên thì chúng nhất loạt trổ hoa vàng. Chi cổ vài ba ngày mà những rừng phách

đã lênh láng sắc vàng. Chữ “đổ” là một chữ tinh tế. Nó nhấn mạnh vào khía cạnh mau lẹ

trong việc biến đổi màu sắc, đồng thời diễn tả những trận mưa hoa vàng rừng phách mỗi

khi có một luổng gió ào qua. Bõ ràng, gam màu đến đây đã thay đổi hằn, sấc trắng đã

nhường chỗ hẳn cho sác vàng. Dường như âm thanh đã làm đổi thay màu sắc. Trên nền

cảnh ấy xuất hiện một hình ảnh lao động đấy kiên nhẫn của một cô gái Việt Bắc: “Nhớ cô

em gái hái măng một mình”. Hình ảnh này làm toát lên dáng điệu chịu thương, chịu khó,

hay lam hay làm, giàu đức hy sinh. Bao bọc lên hình ảnh này dường như chúng ta thấy sự

cảm thương kín đáo của người viết.

Bộ tranh này kết thúc bằng bức tranh thu. Ba bức tranh trên là cảnh ngày, riêng bức này

là cảnh đêm. Bức tranh vẽ ra những ánh trăng rọi qua vòm lá tạo thành một khung cảnh

huyển ảo: “Rừng thu trăng rọi hoà bình”. Nó xui khiến ta nhớ đến một câu thơ cũng viết

vể đêm rừng Việt Bắc của Hồ Chí Minh: “Trăng lồng cồ thụ bóng lồng hoa”. Đây đúng là

khung cảnh trữ tình dành cho những cuộc hát giao duyên. Cho nên nó là cảnh cuối cùng:

“Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”. Chữ “ai” là cách nói bóng gió, ám chỉ người đang

hát cùng với mình, làm cho lời lẽ trở nên tình tứ hơn. Và qua tiếng hát chúng ta thấy được

phẩm chất ân tình, chung thuỷ của người Việt Bắc.

Tóm lại, bốn bức tranh, bốn cảnh sắc, bốn dáng điệu. Tố Hữu đã thâu tóm được những gì

là đặc trưng nhất của quê hương cách mạng. Điều thú vị là tất cả đều hiện lên trong điệp

khúc nhớ thương. Những chữ “nhớ” đứng ở đầu câu tạo nên âm hưởng rất mặn mà, da

diết của nỗi nhớ. Trong nỗi nhớ tất cả đều hiện lên lung linh hơn, huyền ảo hơn.

2. Cách làm bài nghị luận về đoạn trích văn xuôi

Đối tượng của kiểu bài này rất đa dạng: Có thể là giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn

trích nói chung, có thể chỉ là một phương diện, thậm chí một khía cạnh nội dung hay

nghệ thuật của đoạn trích đó.

Yêu cầu của bài văn nghị luận về một đoạn trích văn xuôi

Ngoài yêu cầu chung của một bài văn nghị luận : bố cục bài viết rõ ràng; trình bày ý khoa

học; hành văn có cảm xúc, linh hoạt; dẫn chứng phải chính xác…Bài văn nghị luận về

một đoạn trích văn xuôi cũng có những yêu cầu riêng :

Tài liệu được biên soạn bởi cô Thu Trang

Trường THPT Tạ Uyên, Yên Mô, Ninh Bình

– Phải phân biệt được nghị luận về một đoạn trích và nghị luận về một tác phẩm. Nghĩa

là tránh việc đề cập tới tất cả các nội dung của tác phẩm còn nội dung của đoạn trích lại

sơ lược.

– Tập trung vào đoạn trích nhưng phải biết vận dụng kiến thức của toàn tác phẩm như nội

dung tư tưởng, cách kể chuyện, cách sử dụng chi tiết, cách xây dựng nhân vật, các biện

pháp tu từ. Nhất thiết phải đặt đoạn văn trong chỉnh thể của tác phẩm mới có cách đánh

giá chính xác.

Các bước làm bài :

Bước 1: Phân tích đề – xác định các yêu cầu của đề :

– Xác định dạng đề;

– Yêu cầu nội dung (đối tượng);

– Yêu cầu vê phương pháp;

– Yêu cầu phạm vi tư liệu, dẫn chứng.

Học sinh cần đọc kĩ đoạn trích; xác định được yêu cầu của đề; triển khai luận điểm, luận

cứ phù hợp; biết vận dụng các thao tác nghị luận để viết bài văn.

b) Bước 2: Lập dàn ý – tìm ý, sắp xếp ý: Theo bố cục ba phần

– Mở bài:

Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, đoạn trích văn xuôi cần nghị luận.

Giới thiệu vấn đề nghị luận

– Thân bài: Phân tích những giá trị nội dung, nghệ thuật tác phẩm, đoạn trích để làm rõ

vấn đề cần nghị luận hoặc một số khía cạnh đặc sắc nhất của đoạn trích.

– Kết bài: Đánh giá chung về tác phẩm, đoạn trích.

c) Bước 3: Viết bài.

Dựa theo dàn bài đã xây dựng, viết thành bài văn hoàn chỉnh.

Chú ý viết đoạn văn phải thể hiện được nổi bật luận điểm và chứng minh bằng những

luận cứ rõ ràng. Các đoạn phải có liên kết, chuyển tiếp nhau.

READ  Nghị luận Bạn sinh ra là một nguyên bản đừng chết như một bản sao (4 Mẫu)

Tài liệu được biên soạn bởi cô Thu Trang

Trường THPT Tạ Uyên, Yên Mô, Ninh Bình

d) Bước 4: Kiểm tra, chỉnh sửa.

Ví dụ minh hoạ:

Trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, khi Mị bị A Sử trói vào cột, Tô Hoài viết :

“ Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng

nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. “ Em

không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào…”. Mị vùng bước đi.

Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng

chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình

không bằng con ngựa”.

( Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài)

Từ đoạn văn trên, anh/ chị hãy làm rõ hình ảnh nhân vật Mị và nghệ thuật miêu tả tâm lí

nhân vật của nhà văn.

Đề bài đặt ra hai yêu cầu : hình ảnh nhân vật Mị và nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của

nhà văn.

Mở bài

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: có thể chọn lọc cá ý sau đây để đưa vào mở bài :

Năm 1952 Tô Hoài đi cùng với bộ đội vào giải phóng Tây Bắc . Trong chuyến đi này nhà

văn đã có dịp sống găn bó với đồng bào các dân tộc thiểu số ( Thái , Mường, Mông ,

Dao ..)nên đã để lại nhiều kỉ niệm, hiểu biết về cuộc sống con người miền núi

Thôi

thúc Tô Hoài viết ” Truyện Tây Bắc” trong đó có ” Vợ chồng A Phủ”

” Vợ chồng A Phủ” (1952) in trong tập truyện “Tây Bắc”. Truyện được giải nhất Truyện

và kí VN năm 0888672676. Tác phẩm gồm hai phần , đoạn trích trong sách giáo khoa là

phần một.

– Giới thiệu đọan trích cần nghị luận( Không cần chép hết đoạn trích vào bài thi nhé )

-Vấn đề nghị luận : hình ảnh nhân vật Mị và nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của nhà

văn.

Thân bài

Luận điểm 1 : Khái quát về tác phẩm và vị trí đoạn trích ( ngắn gọn )

Tài liệu được biên soạn bởi cô Thu Trang

Trường THPT Tạ Uyên, Yên Mô, Ninh Bình

Luận điểm 2 : Phân tích đoạn trích để làm nổi bật vấn đề

Học sinh phải tách tách thành hai ý theo yêu cầu của đề bài. Trong mỗi ý lớn, học sinh

phải xác định được các ý nhỏ.

1.

Hình ảnh nhân vật Mị

[external_link offset=2]

– Mị có khát vọng sống mãnh liệt (Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết

mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những

cuộc chơi, những đám chơi. “ Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt

pao nào…”).

+ Mị vốn là một cô gái yêu đời, có khát vọng sống mãnh liệt. Dù bị trà đạp nghiệt ngã

nhưng khát vọng ấy đã trỗi dậy trong đêm tình mùa xuân.

+ Nếu ban đầu, tiếng sáo còn là yếu tố ngoại cảnh, giờ đây tiếng sáo đã nhập hẳn vào tâm

hồn Mị. Mị đang sống trọn với nó. Tiếng sáo là tiếng gọi của tình yêu, tình đời; tiếng sáo

vẫn tha thiết, giục giã ; tiếng sáo đã đánh thức khát vọng sống nơi Mị.

– Số phận của Mị (Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không

nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi

chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa).

+ Mị bừng tỉnh, dây trói của A Sử làm Mị nhận ra hiện thực nghiệt ngã. Khát vọng sống

của Mị đã bị chặn đứng.

+ Mị nghĩ mình không bằng con ngựa và thực tế cuộc đời Mị không bằng con ngựa (Mị

là con dâu gạt nợ, là thân phận nô lệ, bị giam hãm…)

-> Tấm lòng của nhà văn.

2. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn

– Nhà văn như đã nhập thân vào nhân vật Mị và miêu tả diễn biến tâm lí theo một trình tự

hợp lí :

+ Để đánh thức sức sống đang tiềm tàng trong Mị, nhà văn trả lại cho Mị kí ức đẹp.

+ Đang sống trong quá khứ mà quên cả hiện tại đang bị trói nên Mị vùng bước đi.

+ Khi nỗi đau thể xác ập đến, thế giới mông tưởng bị dập tắt, Mị không nghe tiếng sáo

nữa mà nghe tiếng chân ngựa.

Tài liệu được biên soạn bởi cô Thu Trang

Trường THPT Tạ Uyên, Yên Mô, Ninh Bình

– Sử dụng yếu tố ngoại cảnh có hiệu quả : hơi rượu, tiếng sáo, bài hát quen thuộc.

-> Tài năng của nhà văn

Kết bài : đánh giá chung

Những đoạn trích văn xuôi cần lưu ý trong kì thi THPT quốc gia

Tuyên ngôn độc lập- Hồ Chí Minh

Đoạn mở đầu : “Hỡi đồng bào cả nước….Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”

Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài

– Cảm nhận đoạn trích: “Ngoài đầu núi, đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi [….]Mị trẻ

lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”.

– Cảm nhận đoạn trích: “Bây giờ Mị cũng không nói. Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ[…]

không biết sáng tự bao giờ”.

– Cảm nhận đoạn trích: “Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn[…]Hai người đỡ

nhau lao xuống dốc núi”.

– Cảm nhận đoạn trích: “Lần lần mấy năm qua, mấy năm sau[…]Đến bao giờ chết thì

thôi”.

Vợ nhặt – Kim Lân

– Cảm nhận đoạn trích: “Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào[…]Thị có vẻ rón rén, e

thẹn”.

– Cảm nhận đoạn trích: “Thị lẳng lặng theo hắn vào trong nhà […] ấy thế mà thành vợ

thành chồng”.

– Cảm nhận tâm trạng bà cụ Tứ qua đoạn trích: “Ngoài ngõ có tiếng người húng hắng

ho[…]nước mắt chảy xuống ròng ròng”.

– Cảm nhận đoạn trích: “Sáng hôm sau mặt trời lên bằng con sào […] tu sửa lại căn nhà”.

– Cảm nhận đoạn trích: “Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại […] lá cờ đỏ bay phấp

phới”.

– Cảm nhận đoạn trích: Bà lão cúi đầu nín lặng…. chúng mày về sau

Tài liệu được biên soạn bởi cô Thu Trang

Trường THPT Tạ Uyên, Yên Mô, Ninh Bình

Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành.

– Cảm nhận đoạn trích: “Làng ở trong tầm đại bác […] đồi xà nu nối tiếp tới chân trời”.

– Cảm nhận đoạn trích: “Tnú không cứu sống được Mai […] chúng nó đã cầm súng mình

phải cầm giáo”.

– Cảm nhận đoạn trích: “Một ngón tay Tnú bốc cháy […] mang từ đỉnh núi Ngọc Linh

về”.

– Giải thích và bình luận câu nói của cụ Mết: “Chúng nó đã cầm súng mình phải cầm

giáo”.

– Giải thích và bình luận câu nói của cụ Mết: “Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất

ta. Cây mẹ ngã cây con mọc lên. Đố chúng nó giết hết được cả rừng xà nu này”.

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – Nguyễn Tuân

-Cảm nhận đoạn văn: “Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá…gậy đánh phèn”

-Cảm nhận đoạn văn : “Thạch trận dàn bày vừa xong…Thế là hết thác”. (Đoạn này chủ

yếu phân tích cảnh vượt thác của người lái đò.

-Cảm nhận đoạn: “Con sông Đà tuôn dài…nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. (Chủ yếu là vẻ đẹp

trữ tình)

6.So sánh cảnh vượt thác và cảnh cho chữ.

AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG – Hoàng Phủ Ngọc Tường

-.Cảm nhận đoạn “Trong các dòng sông đẹp ở các nước…bát ngát tiếng gà”.

-.Cảm nhận đoạn: “Từ đây như tìm thấy đường về…mãi chung tình với quê hương xứ sở

3. Cách làm dạng đề phân tích tình huống truyện trong tác phẩm văn

học

Cách làm dạng đề phân tích tình huống truyện trong tác phẩm văn học

1) khái niệm tình huống truyện

Tài liệu được biên soạn bởi cô Thu Trang

Trường THPT Tạ Uyên, Yên Mô, Ninh Bình

– tình huống truyện có thể hiểu là hoàn cảnh, bối cảnh tạo nên câu chuyện

– là mối quan hệ đặc biệt giữa nhân vật này với nhân vật khác; giữa hoàn cảnh và môi

trường sống với nhân vật. Qua đó nhân vật bộc lộ tình cảm, tính cách hay thân phận góp

phần thể hiện sâu sắc tư tưởng của tác giả.

2) phân loại tình huống

– tình huống tâm trạng

– tình huống hành động

– tình huống nhận thức

3,Các bước phân tích tình huống truyện trong tác phẩm văn học :

A/Xác định tình huống : trả lời câu hỏi : chuyện kể về ai? ở đâu? khi nào? xảy ra như thế

nào? mối quan hệ giữa các nhân vật? mối quan hệ giữa nhân vật với môi trường, hoàn

cảnh có gì đặc biệt

B/. Phân tích tình huống truyện : phân tích cụ thể câu chuyện

C/Ý nghĩa tư tưởng của tình huống truyện :

– Thể hiện chủ đề tác phẩm

-Khắc họa tính cách, phẩm chất nhân vật

– Lôi cuốn, hấp dẫn cho câu chuyện

Ví dụ minh họa

1)Tác phẩm Vợ nhặtcủa Kim Lân

A/Xác định tình huống

Sau khi lướt qua các tình tiết chính của truyện này, ta dễ dàng thấy rằng hạt nhân của

truyện ngắn Vợ nhặt là một cuộc hôn nhân oái ăm, kì lạ. Và đó chính là cái “tình thế nảy

ra truyện”, cái tình huống của câu chuyện: Tràng – anh nông dân nghèo thô kệch, dân ngụ

cư bỗng “nhặt” được vợ trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.

B/. Phân tích tình huống truyện

-Việc Tràng “nhặt vợ” tạo ra sự lạ lùng, ngạc nhiên đối với tất cả mọi người:

Tài liệu được biên soạn bởi cô Thu Trang

Trường THPT Tạ Uyên, Yên Mô, Ninh Bình

+Khi Tràng dẫn vợ về thì cả xóm ngụ cư ngạc nhiên. Trước hết là lũ trẻ. “Lũ ranh” ấy

bỗng nhiên mất hẳn đi một bạn chơi, khi có đứa chợt nhận ra quan hệ của họ là “chồng

vợ hài”. Còn đám người lớn thì ngớ ra “không tin được dù đó là sự thật”. Khi đã rõ, họ tò

mò thì ít mà ái ngại nhiều hơn: “Giời đất này còn rước cái của nợ đời về”.

+Tiếp đến là bà cụ Tứ cũng quá đỗi ngạc nhiên: hoàn toàn không tin nổi – không tin vào

mắt mình (ngỡ mình trông gà hoá cuốc), không tin vào tai mình (quái, sao lại chào mình

bằng “u”).

+Ngay cả Tràng vẫn không hết ngạc nhiên vì mình được vợ: chẳng những cứ đứng “tây

ngây” giữa nhà tối hôm trước mà đến tận hôm sau, qua một đêm có vợ rồi nhưng “hắn cứ

lơ lửng như người đi ra từ trong một giấc mơ”.

-Tình huống “nhặt vợ” là tình huống oái ăm, kì lạ:

+ Tràng – một gã trai nghèo khổ, thô kệch, lại là dân ngụ cư, lâu nay ế vợ, bỗng dưng

“nhặt” được vợ, mà lại là vợ theo không.

+ Tràng lấy vợ vào lúc không ai lại đi lấy vợ – giữa những ngày nạn đói đang lăm le cướp

đi mạng sống của mỗi người.

+ Một đám cưới thiếu tất cả mà lại như đủ cả (thiếu tất cả những lễ nghi tối thiểu nhất của

một đám cưới, nhưng nó lại có cái quan trọng nhất, cốt lõi nhất: sự thương yêu gắn bó

thực lòng).

-Tâm trạng của những nhân vật trước tình huống này chứa đầy những cảm xúc ngổn

ngang, mâu thuẫn và các nhân vật có sự thay đổi về tính cách:

+Bà cụ Tứ vui vì cuối cùng con mình cũng có vợ nhưng lại tủi vì sự trớ trêu của số phận:

có phải thời “tao đoạn” như thế, người ta mới chịu lấy con mình? Bà mẹ nghèo nặng trĩu

những lo âu cho tương lai con “liệu chúng nó có nuôi nhau nổi sống qua được cơn đói

khát này không?”. Câu hỏi từ đáy lòng của bà mẹ chất chứa nỗi hoang mang, ám ảnh của

kiếp nghèo không lối thoát. Trong lời nghẹn nghào tâm sự có cả sự xót xa, một chút ân

hận vì đã không làm được đầy đủ bổn phận của người mẹ đối với con.

+Tâm trạng của Tràng cũng biến đổi liên tục. Lúc đầu Tràng tỏ ra lo lắng trước cảnh

nghèo “… thóc gạo này mà còn đèo bòng”. Sau đó, Tràng chấp nhận đưa vợ về ra mắt

với tâm trạng lâng lâng hạnh phúc, ngượng ngịu, bối rối. Sau một ngày có vợ, Tràng cảm

thấy vui sướng, hạnh phúc và “nên người”. Tràng nhận ra được trách nhiệm của bản thân

READ  Nghị luận về tệ nạn xã hội ma túy

Tài liệu được biên soạn bởi cô Thu Trang

Trường THPT Tạ Uyên, Yên Mô, Ninh Bình

đối với gia đình, với mẹ, với vợ và những đứa con sau này. Tràng tin tưởng sự đổi đời ở

tương lai.

+Người vợ nhặt: Trước khi làm vợ Tràng, chị liều lĩnh, chao chát. Khi về làm vợ, chị tỏ

ra lễ phép, đảm dang, hiền hậu, biết thu vén gia đình và có hiểu biết về thời sự.

C/Ý nghĩa tư tưởng của tình huống truyện

-Tố cáo được tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật, kẻ đã gây ra nạn đói khủng

khiếp, không chỉ cướp đi sinh mệnh của mấy triệu người Việt Nam, mà còn hạ thấp giá trị

con người.

-Phát hiện và khẳng định bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của con người: ngay trên

bờ vực của cái chết, họ vẫn hướng về sự sống, khát khao tổ ấm gia đình và thương yêu

đùm bọc lẫn nhau.

2) Tác phẩm Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi

A/. Xác định tình huống

Đây là câu chuyện về gia đình của anh Giải phóng quân tên Việt. Nhân vật này rơi vào

tình huống đặc biệt: trong một trận đánh, Việt bị thương phài nằm lại giữa chiến trường.

Anh nhiều lần ngất đi rồi tỉnh lại, tỉnh lại rồi ngất đi. Trong những lúc tỉnh lại ngất đi đó,

bao nhiêu kí ức về gia đình, về đồng đội, về bản thân cứ mồn một hiện về lung linh sống

động trong tâm trí Việt.

B/ Phân tích tình huống

-Nhờ tình huống truyện, tác phẩm có một lối tự sự riêng. Lối tự sự, kể chuyện không

hoàn toàn theo trật tự thời gian mà chủ yếu theo dòng hồi tưởng miên man đứt nối của

Việt lúc bị thương nằm lại giữa chiến trường mênh mông bóng tối – bóng tối của màn

đêm, bóng tối do đôi mắt bị thương không thể nhìn thấy gì bên ngoài. Chính nhờ cách

trần thuật này mà mạch truyện đi về thoải mái giữa quá khứ và hiện tại; giữa cái đang ở

trước mặt với cái đã thành kỉ niệm xa xưa.

-Dòng ý thức của Việt chập chờn giữa những lần tỉnh, ngất ấy đã lần lượt tái hiện những

gì đã qua, đang có trong đời anh. Dòng nội tâm anh đứt nối, nối đứt đã tái hiện bao nét

sinh động cụ thể về chú Năm, má , chị Chiến:

+Má:

* Có cuộc sống cơ cực, nhọc nhằn, khổ đau.

Tài liệu được biên soạn bởi cô Thu Trang

Trường THPT Tạ Uyên, Yên Mô, Ninh Bình

* Rất mực yêu thương chồng con và căm thù giặc sâu sắc: đi đòi đầu chồng; thương con

hết mực nhưng rất nghiêm khắc (trong hồi ức chập chờn của Việt, má hiện lên đầu tiên:

ghé lại, xoa đầu, đánh thức, lấy cơm cho Việt ăn…); luôn luôn nhắc nhở con về truyền

thống gia đình và mối thù dân tộc; hun đúc, nuôi dưỡng ở con ý chí chiến đấu không mệt

mỏi.

+ Chú Năm:

* Có giọng hò: tiếng hò vừa nhắc nhớ về truyền thống, thắp lên niềm tự hào về quê

hương khó nghèo nhưng bất khuất, vừa như lời hiệu triệu, một tiếng trống quân thúc giục

động viên thanh niên ra trận.

* Giữ cuốn sổ gia đình, ghi từng ngày thay cho Việt và Chiến -> giữ lửa yêu nước truyền

cho các thế hệ.

* Yêu nước, gắn bó với quê hương tha thiết, căm thù giặc sâu sắc.

+ Chị Chiến:

* Yêu thương và luôn nhường nhịn Việt, trừ việc giành đi bộ đội với Việt.

* Mang những phẩm chất của má: đảm đang, tháo vát, sắp xếp chu đáo mọi việc trước

khi lên đường nhập ngũ; bộc trực, quyết liệt, gan góc, quyết không đội trời chung với kẻ

thù.

-Qua dòng hồi ức của nhân vật Việt, người đọc thấy hiện lên hình ảnh của một chàng trai

mới lớn rất hồn nhiên, vô tư mà dũng cảm, gắn bó với những người thân và giàu tinh thần

trách nhiệm với truyền thống của gia đình, quê hương:

+ Tính cách trẻ con, hồn nhiên, vô tư: tranh đi bộ đội, tranh bắt ếch với chị; trong khi chị

Chiến lo toan thu xếp việc gia đình thì Việt “lăn kềnh ra ván cười”, vừa nghe vừa “chụp

một con đom đóm úp trong lòng tay” rồi ngủ quên lúc nào không biết; đi đánh giặc vẫn

đeo ná thun; không sợ giặc nhưng lại sợ ma; mỗi lúc tỉnh lại ngoài chiến trường, Việt nhớ

về gia đình, thèm được má cưng chiều…

+ Tình cảm gắn bó và ý thức trách nhiệm với truyền thống gia đình:

* Gắn bó, yêu thương những người thân: tình cảm gia đình được thể hiện qua dòng hồi ức

của Việt về ba má, chú Năm, chị Chiến…

Tài liệu được biên soạn bởi cô Thu Trang

Trường THPT Tạ Uyên, Yên Mô, Ninh Bình

* Có ý thức trách nhiệm thiêng liêng của một đứa con với truyền thống gia đình: lòng

căm thù giặc, khát vọng cầm súng chiến đấu trả thù cho ba má, bảo vệ gia đình, quê

hương…

* Chiến đấu gan góc, quả cảm: diệt được xe bọc thép của giặc; bị thương nặng, lạc đồng

đội, trong hồi ức đứt nối nhưng luôn thường trực nung nấu: tìm về với anh em, để tiếp tục

đấu tranh; một mình ở lại giữa chiến trường nhưng vẫn sẵn sàng trong tư thế chiến đấu…

-Cách trần thuật này rất hữu hiệu trong việc thể hiện nội dung tư tưởng chủ đạo: gia đình

là cội nguồn sâu thẳm nhất của con người, và truyền thống gia đình là thực sự thiêng

liêng, vì nó đã hiện lên trong một thời khắc thiêng liêng.

-Cách kể chuyện này có hai tác dụng về nghệ thuật: câu chuyện vừa được kể, cũng là lúc

tính cách nhân vật được khắc họa; câu chuyện trở nên mới mẻ, hấp dẫn vì được kể qua

con mắt, tấm lòng và bằng ngôn ngữ, giọng điệu riêng của nhân vật.

C/ Ý nghĩa tư tưởng của tình huống truyện

Nhà văn dựng tình huống tâm trạng nên trần thuật theo dòng ý thức của nhân vật. Qua đó

thể hiện:

-Phẩm chất anh hùng của người nông dân Nam Bộ với ý tưởng nghệ thuật: người anh

hùng là sản phẩm của một thời đại, đồng thời là sản phẩm của một truyền thống gia đình.

-Ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu

nước.

-Sự hòa quyện giữa tình cảm gia đình và tình cảm yêu nước, giữa truyền thống gia đình

và truyền thống dân tộc đã tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn của con người Việt Nam

trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

3) Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu

A/. Xác định tình huống

Truyện ngắn xoay quanh một tình huống chủ chốt: Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng tìm vào

vùng quê miền biển mong chụp được bức ảnh nghệ thuật về làm lịch và tưởng đã thành

công khi thu vào ống kính khung cảnh chiếc thuyền ngoài xa đẹp như một giấc mơ.

Nhưng ngay sau đó, anh đã phải chứng kiến một nghịch cảnh trớ trêu: cảnh bạo hành

trong một gia đình hàng chài vừa bước xuống từ con thuyền ấy. Những ngày sau, cảnh

Tài liệu được biên soạn bởi cô Thu Trang

Trường THPT Tạ Uyên, Yên Mô, Ninh Bình

bạo hành đó vẫn tiếp diễn. Chánh án Đẩu đã mời người đàn bà làng chài đến tòa án để

giải quyết chuyện gia đình của chị.

B/. Phân tích tình huống

– Tình huống truyện được tạo nên bởi nghịch cảnh giữa vẻ đẹp chiếc thuyền ngoài xa với

cái thật gần là sự ngang trái trong gia đình thuyền chài. Sau nhiều ngày “phục kích”,

Phùng mới được “một cảnh “đắt” trời cho”. Nó giống như “một bức tranh mực tàu của

một danh họa thời cổ”. Toàn bộ khung cảnh “từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và

đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”. Nhưng oái oăm thay, cảnh đẹp nhất, có hồn

nhất lại là cảnh ẩn chứa những điều tệ hại nhất, xót xa nhất: bước ra từ thuyền là một

người đàn bà xấu xí, mệt mỏi; một người đàn ông to lớn dữ dằn; một cảnh tượng tàn

nhẫn: gã chồng đánh đập vợ một cách thô bạo; đứa con thương mẹ, đánh lại cha.

-Cuộc gặp gỡ của Đẩu, Phùng và người đàn bà hàng chài ở tòa án đã đẩy tình huống

truyện lên tầm cao của giá trị nhận thức. Chánh án Đẩu đứng về phía người vợ để khuyên

chị ly hôn nhưng thật bất ngờ, bằng những lý lẽ rất chân tình, người vợ từ chối, thậm chí

van xin tòa án cho chị không bỏ chồng. Theo chị, gã chồng là chỗ dựa quan trọng của

người phụ nữ làng chài, nhất là khi biển động phong ba. Hơn nữa, chị còn có những đứa

con, chị phải sống vì con, sống cho con chứ không thể sống vì bản thân. Và trên thuyền

cũng có những lúc vợ chồng con cái sống vui vẻ.

Qua câu chuyện của người đàn bà ở tòa án, chúng ta hiểu thêm về nguyên nhân bi kịch và

tính cách của các nhân vật:

+Gánh nặng mưu sinh đã làm cho người chồng thay đổi tính cách từ hiền lành sang thô

bạo. Người chồng vừa là nạn nhân của cuộc sống đói nghèo vừa là thủ phạm gây ra nỗi

đau cho vợ và con.

+Người vợ là một phụ nữ nhẫn nhịn, cam chịu, giàu lòng vị tha, bao dung, giàu lòng

thương con. Chị thấu hiểu sâu sắc lẽ đời.

+Đẩu hiểu được nguyên do người đàn bà không thể bỏ chồng là vì những đứa con. Anh

vỡ lẽ ra nhiều điều trong cách nhìn nhận cuộc sống. Anh hiểu rằng, con người và cuộc

sống phong phú, phức tạp chứ không dễ dàng lý giải và can thiệp như anh tưởng lúc ban

đầu.

+Phùng như thấy chiếc thuyền nghệ thuật ở ngoài xa, còn sự thật cuộc đời lại ở rất gần.

Cái đẹp ngoại cảnh anh ngỡ là hoàn hảo, toàn bích có thể che khuất cái bề bộn, ngổn

ngang của đời sống. Bề ngoài nhếch nhác, lam lũ, cơ cực lại có thể chứa đựng những vẻ

Tài liệu được biên soạn bởi cô Thu Trang

Trường THPT Tạ Uyên, Yên Mô, Ninh Bình [external_footer]

See more articles in the category: Nghị luận

Leave a Reply