SỰ TÍCH MẸ ĐỊA MẪU – Tạ Ơn Mẹ Địa Mẫu |Traloitructuyen.com

Or you want a quick look: 1, Địa Mẫu là ai?

Traloitructuyen.com cũng giúp giải đáp những vấn đề sau đây:

  • Sự tích Mẹ Địa Mẫu
  • Mẹ Địa Mẫu là ai
  • Kinh Địa Mẫu
  • Tượng mẹ Địa Mẫu
  • Cách thờ Mẹ Địa Mẫu
  • Hình ảnh Mẹ Địa Mẫu
  • Cách thờ Mẹ Diêu Trì
  • Kinh Mẹ Địa Mẫu
 
 
 
 
 
 
 
SỰ TÍCH MẸ ĐỊA MẪU – Tạ Ơn Mẹ Địa Mẫu

SỰ TÍCH MẸ ĐỊA MẪU – Tạ Ơn Mẹ Địa Mẫu

Cảm ơn Quý Phật Tử và Quý Đạo Hữu đã yêu mến trang TẠ ƠN MẸ ĐỊA MẪU, chúng tôi rất hoan hỉ khi đón nhận, được nhiều sự quan tâm muốn tìm hiểu Nguồn gốc, cũng như Ý nghĩa của Địa Mẫu Chơn Kinh.

Trong dân gian có câu: “Cha Trời – Mẹ Đất” được hiểu Trời là Cha, hay còn gọi là Ngọc Hoàng Thượng Đế, đại diện cho chơn khí dương, là Đấng Hóa Sinh, tạo ra sự xoay chuyển trong không gian và thời gian. Còn Đất là Mẹ, hay còn gọi Địa Mẫu, đại diện cho chơn khí âm, sẽ kết hợp cùng chơn khí dương để sanh ra muôn loài vạn vật.

Cho nên từ ngàn xưa đến nay, việc thờ Mẹ Địa Mẫu là hiện tượng khá phổ biến và lâu đời nhất trong tín ngưỡng tâm linh của người Việt. Có thể ở mỗi vùng miền, quốc gia hay các tôn giáo khác nhau sẽ có những tên gọi riêng nhưng chung quy tất cả cũng chỉ là MỘT.

Sau một thời gian luận nghĩa, chúng tôi xin được tóm lược để Quý Phật tử cùng Quý Đạo Hữu hiểu rõ hơn về…

1, Địa Mẫu là ai?

Theo Vũ Trụ Quan, trong thời kỳ Hỗn Mang khi chưa có Trời Đất, trong vũ trụ chỉ có một chất khí đương hỗn độn, mờ mờ mịt mịt, lặng lẽ vô vi, thanh trược hỗn hợp, nhưng vô cùng huyền diệu, gọi là Khí Hư Vô (còn gọi là Hư Vô chi Khí hay Tiên Thiên Hư Vô chi Khí).

Khí Hư Vô ấy lần lần ngưng kết rồi nổ ra một tiếng thật lớn, sanh ra một khối Đại Linh Quang, cũng gọi là Thái Cực, trọn lành trọn tốt, toàn tri toàn năng, thiên biến vạn hóa, vô tận vô cùng, quyền hành thống cả Càn khôn Vũ trụ.

Vũ trụ từ đây bắt đầu có một ngôi Thái Cực, duy nhứt, và Đấng Thống quản ấy được gọi là Ngọc Hoàng Thượng Đế mà chúng ta thường gọi là Đức Chí Tôn.

Đức Chí Tôn phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi : Dương Quang và Âm Quang. Đức Chí Tôn chưởng quản Khí Dương Quang, còn Khí Âm Quang chưa có ai chưởng quản, vì Càn khôn Vũ trụ lúc bấy giờ chỉ có một mình Đức Chí Tôn mà thôi. Đức Chí Tôn mới hóa thân ra Đức Phật Mẫu để chưởng quản Khí Âm Quang.

Vậy, nguồn gốc của Đức Phật Mẫu là một hóa thân đầu tiên của Đức Chí Tôn để làm chủ Khí Âm Quang, cầm phân nửa quyền lực của Đức Chí Tôn và luôn luôn tùng theo mạng lệnh của Đức Chí Tôn.

Vũ trụ tới đây đã có 2 khối chất khí vĩ đại là Dương Quang và Âm Quang, và có 2 Đấng đầu tiên cầm quyền Càn khôn Vũ trụ là Đức Chí Tôn và Mẹ Phật Mẫu.

Sau đó, Đức Phật Mẫu vâng lệnh Đức Chí Tôn, thâu lằn sanh quang của ngôi Thái Cực, rồi đem Âm Quang phối hợp với Dương Quang để tạo hóa ra các từng Trời, các quả Tinh cầu và các Địa cầu, tạo thành Càn khôn Vũ trụ.

Tiếp theo, Đức Phật Mẫu tạo hóa ra Vạn linh nơi cõi Thiêng liêng Vô hình. (Vạn linh gồm đủ Bát hồn : Kim thạch hồn, Thảo mộc hồn, Thú cầm hồn, Nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn, Phật hồn).

Rồi Đức Phật Mẫu lại cho Vạn linh đầu kiếp xuống các Địa cầu tạo thành Vạn vật, tức là Chúng sanh. (Chúng sanh gồm : Kim thạch, Thảo mộc, Thú cầm, Nhơn loại).

Đức Phật Mẫu được nhân loại tôn xưng bằng nhiều danh từ khác nhau, tùy theo tín ngưỡng tôn giáo, dân tộc và địa phương, kể ra như sau đây :

– Đức Phật Mẫu, vì là mẹ thiêng liêng của toàn cả Vạn linh và Chúng sanh.

– Phật Diêu Trì Địa Mẫu vì Đức Phật Mẫu ngự tại Diêu Trì Cung.

– Kim Bàn Phật Mẫu, vì Đức Phật Mẫu chưởng quản Kim Bàn nơi Diêu Trì Cung.

– Cửu Thiên Huyền Nữ, vì Đức Phật Mẫu rất huyền diệu, ngự tại từng Trời Tạo Hóa Thiên là từng thứ 9 trong Cửu Trùng Thiên.

– Đại Từ Mẫu,

– Thiên Hậu,

– Địa Mẫu

2, Công đức Địa Mẫu:

a, Điểm Xuất Phát Của Trời Đất

Từ lúc ban sơ, trên mặt đất và bầu trời là một màu tăm tối mù mịt, trời đất không định rõ phương hướng và thời gian. Mẹ Địa Mẫu mới phân ra trời là dương, đất là âm. Khi ấy, hai luồng khí âm dương giao cảm, quấn tròn vào nhau, tạo ra bầu khí quyển mang sinh khí cho vạn vật.

Tiếp đến, mới hoá sanh ra loài người. Trong càn khôn vũ trụ, Mẹ quản ba ánh sáng: Tinh, Nhật, Nguyệt và gồm bốn phương chánh trụ: Đông, Tây, Nam, Bắc. Kết hợp với Tây Bắc, Tây Nam, Đông Bắc, Đông Nam thành tám hướng, để giúp con người định vị các hướng ở mặt đất.

Còn lại trên cao không trung được gọi là trời. Vì thổ khí là đại diện cho Mẹ Địa Mẫu nên những ngày có thiên can Mậu, Kỷ được chọn là ngày tưởng niệm về Mẹ bởi Mẹ bao dưỡng cho tất cả muôn loài trên trái đất, từ thời khai thiên lập địa cho đến nay.

b, Loài Người Đầu Tiên Được Sanh Ra

Theo kinh sách ghi lại, được dựa trên 10 thiên can và 12 địa chi, kết hợp giữa linh khí âm dương của Trời và Đất, giao cảm hợp thành, tạo ra một luồng chân khí vô cùng tinh anh, và từ đó thánh thai mới được hình thành, rồi Mẹ truyền điển chân tánh hiền lành sang, nên loài người khi ấy rất thuần khiết và lương thiện. Sau đó, thân Mẹ cưu mang luồng chân khí ấy trong suốt 10 năm, mới hóa sanh ra loài người đầu tiên.

Là 6 vị thánh đế minh quân lần lượt xuất thế theo thứ tự: thứ nhất vua Thiên Hoàng, thứ hai vua Địa Hoàng, thứ ba vua Nhơn Hoàng, thứ tư vua Phục Hy, thứ năm vua Thần Nông và thứ sáu là vua Hiên Viên. Cứ như thế, con người bắt đầu có vòng luân hồi, xoay chuyển mãi không dừng. Cho nên, có thể nói các vị vua hiền chúa thánh, cũng đều do Mẹ Địa Mẫu tạo ra.

c, Người Tìm Ra La Bàn, Lương Thực Và Y Phục

Phải kể đến 3 vị thánh đế đã có công khai mở cho loài người. Bắt đầu từ vị thứ tư, vua Phục Hy, đã tìm được sự biến hóa của Trời Đất, tạo ra cách tính thời gian, âm dương ngũ hành. Đồng thời, Ngài dựa trên hai khí âm dương có trong càn khôn vũ trụ và bốn phương tám hướng trên mặt đất, để tạo thành Bát Quái Tiên Thiên, hay còn gọi là La Bàn.

Đến vị thứ 5 là vua Thần Nông, đã tìm thấy được các loại ngũ cốc và sáu hạt giống lương thực đa dạng. Sau cùng, vị thứ 6 là vua Hiên Viên, đã nghĩ ra cách làm nhiều y phục với những vật dụng cần thiết cho người đời, chẳng sót món nào.

Nhờ hai đời vua Thần Nông và Hiên Viên mà muôn dân có được cơm ăn áo mặc. Tất cả, đều nhờ công ơn của Mẹ Địa Mẫu đã âm thầm trợ giúp cho mùa màng, đất đai được tươi tốt.

d, Đằng Sau Những Giọt Mưa

Hầu như khắp chốn thế gian chỉ biết Trời là lớn hơn hết, chớ nào có ai biết đến Mẹ. Thế nhưng, ít ai biết rằng Mẹ Địa Mẫu và Cha Ngọc Hoàng đều đồng nhất thứ. Cho nên hễ trên Trời có mưa đổ xuống, thì dưới Đất sẽ sanh ra các loại ngũ cốc đầy đồng. Thật sự chẳng ai biết nguồn gốc, những giọt mưa ấy là được hút trong “cốt thuỷ tinh vi của Mẹ”, có nghĩa lấy từ nguồn nước tinh tuý trong thân Mẹ chiết ra.

Sau đó, mới hóa lên không trung, kết tụ lại thành từng đám mây, khi gặp luồng điện quang chiếu vào, sẽ phát ra tiếng vang lớn, thường gọi là sấm sét. Lập tức, liền tan thành hơi và hòa lẫn vào trong không khí. Hỗn hợp khí đó sẽ kết dính, tạo thành những giọt nước, rồi rơi xuống mặt đất, đó chính là mưa.

Hiện tượng ấy, dần trở nên quen thuộc và không thể thiếu trong tự nhiên. Các sông ngòi, hồ, suối cũng được hình thành từ đây. Người xưa cho rằng: mưa, sông, suối đều do thần Rồng tạo ra. Nên nơi nào có thần Rồng xuất hiện, ẩn hình trên đám mây, thì nơi đó sẽ đổ mưa, nhưng không ai biết, Ngài cũng là một trong những vị thần do Mẹ tạo ra, để cai quản nguồn cốt thuỷ tinh vi của Mẹ, giúp cho muôn nơi có được mưa thuận gió hòa.

3, Quyền năng Địa Mẫu:

Quyền năng to lớn của Đức Phật Mẫu được cho biết trong 2 bài kinh : Phật Mẫu Chân Kinh và Tán Tụng Công Đức Diêu Trì Phật Mẫu, và trong các bài Thánh Ngôn của Đức Phật Mẫu giáng cơ ban

Một số quyền năng của Đức Phật Mẫu được biết kể ra như sau :

a, Mẹ Phật mẫu làm Chủ Âm Quang :

Đức Chí Tôn làm Chủ Khí Dương Quang, Đức Phật Mẫu làm Chủ Khí Âm Quang, nghĩa là Đức Chí Tôn giao cho Đức Phật Mẫu làm chủ Phần Âm trong toàn cả Chủ Khí Vũ Trụ

b, Phật Địa Mẫu Chưởng quản Kim Bàn :

Kim Bàn hay Kim Bồn là nơi Đức Phật Mẫu dùng chứa các Nguyên chất để tạo Chân thần cho con người nơi cõi thiêng liêng.

c, Địa Mẫu Diêu Trì Chưởng quản Vườn Đào Tiên :

Đức Phật Mẫu tạo ra Vườn Đào Tiên và dùng các quả Đào Tiên ban thưởng cho các Chân linh tu hành đắc đạo khi trở về cõi Thiêng liêng Hằng sống.

Hằng năm, đến kỳ Đào Tiên chín, Đức Phật Mẫu mở Hội Yến Bàn Đào nơi Diêu Trì Cung, dùng các quả Đào Tiên và Tiên tửu, đãi các Đấng Tiên Phật nơi cõi thiêng liêng.

d, Đức Phật Mẫu tận độ nhân sanh :

Toàn cả nhân loại, nhất là 92 ức nguyên nhân đang còn trầm luân nơi cõi trần, đều là con cái thương yêu của Đức Phật Mẫu. Đức Phật Mẫu tận dụng các hình thức giáo hóa để cứu độ tất cả con cái của Ngài, đem trở về cõi thiêng liêng, giao cho Đức Chí Tôn phán định phẩm tước và ngôi vị.

e, Đức Phật Mẫu Chưởng quản Tạo Hóa Thiên :

Tạo Hóa Thiên là từng Trời rất huyền diệu, cao nhứt trong Cửu Trùng Thiên.

Theo Di-Lạc Chân Kinh :

” Tạo Hóa Huyền Thiên hữu : Quảng Sanh Phật, Dưỡng Dục Phật, Chưởng Hậu Phật, Thủ Luân Phật, dữ Cửu vị Nữ Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, tùng lịnh Kim Bàn Phật Mẫu, năng tạo năng hóa Vạn linh, năng du Ta-bà Thế giới, dưỡng dục quần sanh, qui nguyên Phật vị.

Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, thính Ngã dục tu phát nguyện : Nam mô Kim Bàn Phật Mẫu dưỡng dục quần linh; nhược hữu sanh, nhược vị sanh, nhược hữu kiếp, nhược vô kiếp, nhược hữu tội, nhược vô tội, nhược hữu niệm, nhược vô niệm, huờn hư thi hình đắc A-Nậu Đa-La Tam-Diệu-Tam-Bồ-Đề xá lợi tử qui nguyên Phật vị, tất đắc giải thoát.”

Nghĩa là :

Từng Trời Tạo Hóa Thiên huyền diệu có : Quảng Sanh Phật, Dưỡng Dục Phật, Chưởng Hậu Phật, Thủ Luân Phật, cùng với Chín vị Nữ Phật, như các cấp vô số các vị Phật, tuân theo mạng lịnh của Đức Phật Mẫu chưởng quản Kim Bàn, có khả năng tạo hóa tất cả các Chân linh, có khả năng đi đây đi đó đến các cõi trần, nuôi nấng chăm sóc chúng sanh, trở về nguồn cội là ngôi vị Phật.

  Nếu như có người Nam lành, người Nữ lành, nghe theo lời Ta, muốn tu hành thì phát ra lời nguyện : Nam mô Kim Bàn Phật Mẫu nuôi nấng chăm sóc tất cả các Chân linh ; nếu như có sanh ra, nếu như chưa sanh ra, nếu như có kiếp sống, nếu như không có kiếp sống, nếu như có tội, nếu như không tội, nếu như có lòng tưởng niệm, nếu như không có lòng tưởng niệm, trở lại cõi Hư Vô, thi hành đúng theo khuôn phép, được phẩm vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Chân thần trở về nguồn cội là ngôi vị Phật, ắt được giải thoát.

f, Quyền làm Mẹ Vạn linh :

Đức Phật Mẫu là bà Mẹ thiêng liêng của toàn cả Vạn linh, mà Vạn linh thì gồm đủ Bát Hồn gồm : Kim thạch hồn, Thảo mộc hồn, Thú cầm hồn, Nhân hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn và Phật hồn.

Nhưng tại sao quyền hành của Đức Phật Mẫu lại nhỏ hơn quyền hành của Đức Nhiên Đăng Cổ Phật hay Đức Di-Lặc Vương Phật ?

Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo về Con Đường Thiêng liêng Hằng sống có một đoạn như sau :

” Bần đạo đi ngang Cung Hỗn Nguơn Thượng Thiên , là nơi Đức Di-Lạc đã thâu pháp, đã định vị nơi ấy. Bần đạo có tả mà trong tâm còn mờ hồ, không biết tại sao, vì lẽ gì, Đức Phật Mẫu là Mẹ mà phải chịu dưới quyền con là Đức Di-Lạc, trong bụng coi hơi bất mãn.

Liền khi ấy, Bần đạo ngó thấy cái tướng hình của Đức Phật Mẫu đứng đằng trước, còn Đức Di-Lạc ở đằng sau lưng, quì xuống, đưa hai bàn tay lên, đặng tỏ cho Bần đạo hiểu, dầu cho người con ấy mạnh mẽ, quyền hành thế nào, mà quyền Mẹ vẫn là quyền Mẹ, không thế gì qua được. Ngài chỉ tuân theo mạng lịnh của Đức Phật Mẫu đặng trị thế mà thôi.”

Cũng trong Con đường Thiêng liêng Hằng sống, Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo, thuật lại lúc Ngài vào Diêu Trì Cung bái kiến Đức Phật Mẫu, thấy cái huyền năng vô biên của Đức Phật Mẫu :

” Bần đạo cùng các bạn kỳ trước đã ghé nơi Tạo Hóa Thiên, tức Tòa Thiên Cung Phật Mẫu là Diêu Trì Cung.

Bần đạo có nói một điều làm cho chúng ta nên suy nghĩ nhiều là : Huyền bí vô biên của Phật Mẫu.

Bần đạo nói sơ lược huyền năng thế nào, mà khi chúng ta vào kiến diện Đức Phật Mẫu, ta ngó trên mặt Ngài, ta thấy mặt bà mẹ ta, sanh ta, đương như buổi sống, đương lo buổi trở về. Bần đạo tưởng ngó thấy bà mẹ sanh Bần đạo, tưởng cả thảy cũng đều ngó thấy người mẹ của họ vậy.

Nếu lấy theo cái trí học tưởng tượng không biết con mắt thiêng liêng có chiếu hình mẹ ta chiếu diệu ra không ? hay là Huyền diệu vô biên của Phật Mẫu cho chúng ta thấy như vậy.

II, Phật mẫu chân kinh:

1, Nguồn Gốc Và Ý Nghĩa Địa Mẫu Chân Kinh

Từ xa xưa, Vua Bàn Cổ là vị Đế Vương đầu tiên, vinh danh Mẹ Địa Mẫu với phẩm tước Phật Mẫu ở bậc Đấng Tối Cao, Tối Thượng. Ngoài ra, trong Kinh còn lưu truyền rằng Mẹ đang ngự trên cung Diêu Trì nên từ đó mới có hồng danh là Diêu Trì Phật Mẫu.

Vì vậy, muốn có phẩm hạnh đạo đức tốt thì phải siêng năng đọc và trì Kinh Địa Mẫu, sau mới bước vào con đường Tu Đạo Hạnh. Để con đường tu đạo được mở rộng, phải luôn nghĩ tới và hồi hướng công đức cho tất cả chúng sanh, cho nên cần phải cầu xin cha Ngọc Hoàng hoan hỉ xá tội cho chúng sanh và khấn nguyện Mẹ Địa Mẫu giúp cho muôn loài được an nhàn trường cửu, thì con đường tu đạo mới đắc thành. Và kể từ đây, những nghi vấn trong tự nhiên dần được giải đáp…

2, Địa Mẫu Chân Kinh Được Mẹ Giáng Truyền

Vào thời nhà Thanh, vua Quang Tự, lên ngôi đến năm thứ 9. Nhằm ngày mùng Chín, tháng Giêng âm lịch tại Miếu Bà, phủ Hớn Trung, huyện Thành Cổ, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc có ghi rõ, Phật Mẫu đang ngự trên chim Loan hiện xuống và truyền dạy kinh này.

Trong nhiều kiếp tái sanh của các chư Phật, Bồ Tát cũng đều nằm trong thân Mẹ, chẳng có vị nào lìa xa. Thậm chí ở khắp hướng Đông, Tây, Nam, Bắc trên đất liền hay các xứ sở bao trùm bốn biển, có bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông và tám tiết trời với kênh rạch, sông hồ, biển sâu, núi cao, rừng thẳm, cổ thụ ngàn năm.

Kể cả các đời Đế Vương đại danh, lớn bé trong cung điện cho đến 72 vị thần trông coi đời sống cho chúng sanh.

Hay năm loại ngũ cốc và sáu hạt giống lương thực tươi xanh, cây cối và muôn loài, động vật, cũng đều do Mẹ tạo ra. Từ đó mà sử sách có câu:“Sanh tại thế, tử hườn tại thế”, có nghĩa là con người khi sanh ra, nhờ thực vật Mẹ ban mà trưởng thành. Lúc chết đi, thân xác chôn dưới đất, cũng trở về trong thân Mẹ.

Những phẩm tước trước sau của các bậc Thần, Tiên, Thánh hay những Hiền Tử lớn nhỏ cũng đều được Mẹ sắc phong.

Hoặc với các chư Phật có kim thân bất hoại, nghĩa là sau khi các Ngài viên tịch, thân xác còn nguyên vẹn nên hình tướng ấy sẽ được giữ lại để thờ cúng ở những nơi linh thiêng. Tất cả cũng nhờ có Mẹ chứng quả nên mới đắc thành chánh giác.

Sự chứng quả đó, còn quý hơn cả trân châu, bửu ngọc ở bốn phương trời. Cho dù có làm tốt đến mấy nhưng nếu, thiếu đi sự công nhận của Mẹ thì đâu thể đắc thành sở nguyện được.

Hãy nhìn lại mà xem trong các vương quốc lớn nhỏ, hay các Đế Vương, nếu thờ Mẹ với sự trang nghiêm và tôn kính thì sẽ được ban ơn thịnh quốc. Còn nước nào ỷ thế hà hiếp, áp bức, Mẹ sẽ chuyển phạt nên mới có cảnh, quan quân tranh đấu khởi nghĩa.

Cho nên những nơi như Am tĩnh, Quán xá, Thư viện, Lâu đài ở các Phủ, Huyện, Quận, Châu, có những cuốn Kinh được sao chép đều trích từ văn tự gốc của Mẹ, mới có những lời hay ý đẹp. “Để nuôi dưỡng các con, Mẹ ban rất nhiều lúa gạo, bông hoa, cây trái, đủ thứ rau củ quả hay các gia vị thường dùng như chua, ngọt, đắng, cay có cả đường, hành tỏi, tiêu ớt với hẹ, củ nén, kiệu và gừng. Biết một số nam nữ kén chọn khẩu vị, nên Mẹ tạo thêm dầu, tương, muối, giấm để cho các con dùng cho vừa miệng. Cả thắt lưng, vải thô, trang sức, lụa là… cũng do Mẹ ban cho, vạn sự đều được Mẹ lo và vun dưỡng trưởng thành.

READ  Hung hãn đấm vào mặt cảnh sát, “thánh chửi” Trần Đình Sang lĩnh án 2 năm tù

Mọi thứ Mẹ tạo ra, Mẹ luôn hết lòng chăm sóc và tái tục kể cả tiền bạc và những vật dụng khác cho các con.

Ngay cả có những chứng bệnh lạ sanh ra ở con nít, đàn bà hay đàn ông, Mẹ cũng nghĩ ra nhiều phương thuốc để giúp các con phòng ngừa và điều trị.

Công lao ấy, không có bút mực nào tả xiết. Quả Địa Cầu này, Mẹ tích trữ rất nhiều lương thực, thực phẩm và ban nguồn tri thức dành cho 6 cõi luân hồi gồm Ngạ Quỷ, Súc Sanh, Địa Ngục, Atula, Cõi Người và Cõi Trời để tìm hiểu và dùng chẳng bao giờ cạn. Sử sách còn có câu: “Phụ Mẫu ái tử chi tâm, vô sở bất chí”, nghĩa là: “Tình Mẹ thương con cho dù khổ cực đến mấy, Mẹ cũng không quản ngại. Mẹ đã dồn hết lực vào các con như thế đó. Vậy mà chẳng thấy các con nhớ ơn hay biết kính trọng đến người Mẹ này?”

3, Lời Giáo Huấn Của Mẹ Địa Mẫu

Bao nhiêu nhọc nhằn cay đắng Mẹ âm thầm chịu đựng, nhưng người đời mấy ai hiểu thấu. Mẹ đau lòng xót dạ khi thấy chúng sanh gặp nạn tai. Mẹ Địa Mẫu đã dạy: “Từ ngàn xưa đến nay, Mẹ chẳng hề nhắm mắt, vì nếu Mẹ nhắm mắt, sẽ có nạn lớn liền xảy ra cho các con. Cho dù mệt mỏi đến mấy, Mẹ cũng không thể xoay lưng bỏ mặc, để cho Ma Vương thừa cơ phá nát.

Lúc đó, Trời và Đất sẽ trống rỗng trở lại như lúc ban sơ. Cả Trời, Đất, Thần, Thánh và mọi thứ đều bị thiêu rụi giống như trong lò bát quái. Chẳng còn biết đâu là hướng Đông, Tây, Nam, Bắc. Đến chừng đó, muôn loài vạn vật sẽ thành ra tro bụi mà thôi”. Các con không biết Mẹ danh tánh thế nào thì hãy lắng nghe cho kỹ đây. Có một Lão Bà, được sanh từ thuở Trời Đất còn mù mịt, hỗn độn. Người đàn bà ấy chính là Mẹ. Lúc đó, Mẹ sống ở đời được 12 muôn kiếp, thọ hưởng 9.600 tuổi.

Trong thời gian ở trần thế, Mẹ đã lao tâm khổ trí với muôn ngàn cay đắng để dạy dỗ khuyên răn các con. Đến khi hoàn thành xong mọi việc ở trần gian, Mẹ đành phải từ giã đàn con để trở lại Thiên Đình. Mẹ hóa thân nhanh như chớp, đi vào cõi hư không vô thượng và ngay lúc đó hào quang chiếu rọi khắp thế gian. Từ trai đến gái, ai cũng đều nhận thọ ơn của Mẹ mà chẳng biết nhớ thương hay nghĩ tới ân sâu của Mẹ, nhưng Mẹ nào có phiền trách các con. Nếu các con thật sự muốn gặp lại Mẹ, thì hãy ráng trì Kinh Địa Mẫu, để tu Hạnh Đạo cho thật tốt. Chờ sau thời mạt pháp vào thời điểm hội Tý hoặc hội Sửu, Mẹ con ta sẽ trùng phùng.

Cuốn Địa Mẫu Chân Kinh này đều là lời chánh truyền của Mẹ thuyết ra, chớ nên nghi ngại mà lạc lầm. Nếu nhà nhà đều biết trì niệm thường xuyên, thì mùa màng sẽ được bội thu, cuộc sống ấm no đầy đủ và hạnh phúc.

Chẳng phải lo bị nạn tai dồn dập, mà còn được hưởng thêm tuổi thọ ở dương gian. Còn nếu chẳng nghe lời Mẹ khuyên bảo, thì Ma Vương sẽ lợi dụng thời cơ ấy mà quấy phá, làm cho mùa màng bị thất bát, cháy rụi, chẳng còn một hột gạo để ăn.

Nếu chẳng tin những lời Mẹ dạy bảo, thì sẽ lao vào đại kiếp hỏa phong, nạn ấy vô cùng lớn và rất khủng khiếp. Đối với các bậc Phật, Tiên, Thánh Hiền mà tu đạo chưa tròn, theo đúng con đường chân lý trong Kinh Địa Mẫu thì cần phải khiêm tốn, chớ nên khoe tài ở chốn đông người.

Còn Quần thần Văn Võ hay những bậc Trí thức, Học giả, Nông gia, Thầy thợ, Thương nhân khi đạt được danh lợi mà quên đi chân lý trong Kinh Địa Mẫu này, cũng xem như quên hết Ơn Nghĩa của Mẹ.

Nếu các con chẳng biết đền đáp mà bội nghĩa, nghi ngại, không tin chân truyền nhiệm mầu của Mẹ, cứ tự hành theo ý riêng lại đi sai chánh pháp thì muôn kiếp chẳng thể tái sinh làm người được nữa.”

4, Truyền Bá Địa Mẫu Chân Kinh

Theo Địa Mẫu Chân Kinh, nếu ai hiểu thấu đáo chân lý trong kinh mà muốn truyền bá phổ biến rộng rãi, giúp cho người đời hiểu rõ ý nghĩa thì khi ấy, Mẹ sẽ kiểm tra sự hiểu biết của người được nhận Kinh. Nếu quả thật người này rõ Chân Lý Diệu Mầu, Mẹ sẽ liền độ ngay cho người truyền bá Kinh, có được tâm sáng suốt và trí tuệ phi thường.

Mẹ còn đích thân truyền chân khí sang, để người con này luôn được thần bảo hộ, thậm chí còn có thể được nhìn thấy chân thần của chính mình. Nếu người này muốn học đạo, cần chuyên tâm tu dưỡng tâm tính thì mới có được hạnh quả cao. Con nếu muốn đạt những năng lực ngoại cảm, thần thông thì Mẹ sẽ chỉ dẫn từng bước để con đường Tu Đạo Hạnh được mở rộng.

Còn người có địa vị cao, hiểu nghĩa thấu Kinh Địa Mẫu mà tạo điều kiện giúp cho người dân hiểu rõ và truyền bá đầy đủ, Mẹ sẽ ban cho con cháu người ấy được hưởng lộc hoàng gia, thiên thu vạn đại.

Hay vị phu nhân nào hiểu hết ý nghĩa và phổ biến Kinh Địa Mẫu, thì con cháu đời đời sẽ được thọ hưởng vinh quang phú quý. Đối với những thiện nam tín nữ muốn truyền bá, in kinh Địa Mẫu cho mọi người được rõ, Mẹ sẽ ban cho người ấy sanh con như nguyện vọng, và luôn có con cháu đời đời nối dõi.

Quý Phật tử, Đao hữu có thể mua sách, nghe kinh Địa Mẫu chân kinh. Cở sở Điêu Khắc Trần Gia xin giới thiệu một số tài liệu:

Địa Mẫu Chân Kinh bản gốc mp3

III, Đền thờ Phật mẫu:

Có Hai kiểu thờ tại Điện Thờ Phật Mẫu

Tại địa phương, ngôi nhà thờ Đức Chí Tôn được gọi là Thánh Thất, ngôi nhà thờ Đức Phật Mẫu gọi là Điện Thờ Phật Mẫu (Đền Thờ Phật Mẫu).Hiện tại, có Điện Thờ Phật Mẫu Tòa Thánh Tây Ninh, Hội Thánh chưa xây cất Đền Thờ Phật Mẫu Trung Ương, nên tạm thời thờ Đức Phật Mẫu tại Báo Ân Từ.

1, Kiểu thứ nhứt (thờ giống như ở Báo Ân Từ) :

Điện Thờ Phật Mẫu thường cất có 3 gian :

– Gian chính giữa thờ : Diêu Trì Kim Mẫu (Đức Phật Mẫu), Cửu Vị Tiên Nương và Bạch Vân Động Chư Thánh.

– Gian bên tả thờ : Chư Chân Linh Nam Phái.

– Gian bên hữu thờ : Chư Chân Linh Nữ Phái.

Các long vị đều được viết bằng chữ Nho đại tự.

2, Kiểu thứ nhì (thờ giống Điện Thờ Phật Mẫu Trí Giác Cung) :

Điện Thờ Phật Mẫu nơi Trí Giác Cung (Trường Qui Thiện cũ) không thờ Chư Chân Linh Nam Phái và Nữ Phái, chỉ thờ Đức Phật Mẫu, Cửu vị Nữ Phật, Bạch Vân Động Chư Thánh.

– Gian giữa thờ : Diêu Trì Kim Mẫu (Đức Phật Mẫu)

– Gian hữu thờ : Cửu Vị Nữ Phật (Cửu Vị Tiên Nương).

– Gian tả thờ : Bạch Vân Động Chư Thánh.

Khi nào Hội Thánh xây dựng được Đền Thờ Phật Mẫu Trung Ương thì mới có thể thống nhất nghi lễ thờ Đức Phật Mẫu.

IV, Ngày Vía Phật Mẹ Địa Mẫu:

Hàng năm vào ngày 18/10 âm lịch được chọn làm ngày Vía Giáng Thế, kỷ niệm ngày Mẹ đã Khai Thiên Lập Địa. Ngoài ra, còn có những ngày Mậu, ngày Kỷ hàng tháng cũng là ngày tưởng nhớ về Mẹ.

Các nghi thức lễ gồm có Hoa, Quả Trái Cây, 6 ngọn nến, 6 ly nước lọc và 5 nén hương và một cuốn Địa Mẫu Chân Kinh, trang phục nghiêm trang để tưởng nhớ công ơn Mẹ, đã khai sanh ra muôn loài.

Nếu hướng cho cả nhà cùng trì Kinh Địa Mẫu với sự biết ơn thì người con hiếu nghĩa này có dâng sớ khẩn cầu, Mẹ sẽ chứng giám lòng thành ngay lập tức. Nếu vợ chồng đồng tâm cúng bái, dâng hương mà không bỏ lỡ ngày nào, Mẹ sẽ ban tuổi thọ và cả đời hưởng lộc triền miên.

Còn tỉnh hoặc thành phố nào tập trung lập đàn, cúng lễ vào những ngày đó, Mẹ sẽ bảo vệ cho những người nơi ấy được bình an. Đối với quốc gia nào hết lòng lập đàn vào những ngày Vía mà không bỏ sót, Mẹ ban nhiều nhân tài, Thánh nhân hạ phàm để trợ giúp cho người dân nước đó được sáng suốt và tránh được những nạn kiếp.

V, Thỉnh hình ảnh, tượng Phật Mẹ Địa Mẫu:

Để lập Đền Thờ, Điện thờ Địa Mẫu, không thể bỏ qua việc thỉnh một pho tượng Mẹ Địa Mẫu đẹp và chất lượng.

Tùy vào điều kiện gia chủ cũng như không gian thờ tụ, Gia chủ có thể lựa chọn những bức tượng Địa Mẫu với nhiều giá cả và chất lượng khác nhau.

Hiện tại, Tượng Phật Mẹ Địa Mẫu được bày bán ở nhiều nơi khác nhau. Điều quan trọng là Quý Phật tử, Đạo Hữu cần lựa chọn những cơ sở bán tượng Địa Mẫu có uy tín để tìm được tôn tượng như ý.

Ngoài ra, để nhận được sụ che chở, phù trợ của Phật Mẹ Địa Mẫu, mỗi người cũng có thể dùng những tranh, hình ảnh Mẹ Phật Mẫu để thờ trong nhà. Hình Phật Mẫu cũng được bán khá nhiều trên thị trường. Quý Phật Tử, Đạo Hữu có thể tìm đến các cở sở uy tín để thỉnh về.

Công nghệ phát triển, mỗi người đều có riêng cho mình một thiết bị thông minh riêng. Mỗi người cũng có thể tải những hình ảnh Phật Mẫu đẹp lên các thiết bị để làm hình nền, để chiêm ngắm Phật Mẹ Địa Mẫu Diêu Trì hằng ngày.

Xin mời quý Phật tử hoan hỷ chiêm ngưỡng video tổng hợp những hình ảnh tượng Phật đẹp nhất do điêu khắc Trần Gia tôn tạo nhé.

 

Nhận xét tích cực từ quý khách hàng của cơ sở điêu khắc tượng Phật Trần Gia:

 

Mời quý Phật tử cùng chiêm ngưỡng hết các mẫu tượng Phật đẹp nhất do điêu khắc Trần Gia tôn tạo nhé:


Tượng Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni


Tượng Phật Bà Quan Thế Âm Bồ Tát


Tượng Phật Địa Tạng Vương Bồ Tát.


Tượng Phật Văn Thù Sư Lợi – Phổ Hiền Bồ Tát .


Tượng Phật A Di Đà.


Tượng Đạt Ma Sư Tổ.


* Tượng Phật Di Lặc Bồ Tát.


Tượng Tiêu Diện Đại Sĩ – Vi Đà Hộ Pháp.

NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA ĐỊA MẪU CHƠN KINH

NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA ĐỊA MẪU CHƠN KINH

NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA ĐỊA MẪU CHƠN KINH

Từ xa xưa, Vua Bàn Cổ là vị Đế Vương đầu tiên, vinh danh Mẹ Địa Mẫu với phẩm tước Phật Mẫu ở bậc Đấng Tối Cao, Tối Thượng. Ngoài ra, trong Kinh còn lưu truyền rằng Mẹ đang ngự trên cung Diêu Trì nên từ đó mới có hồng danh là Diêu Trì Phật Mẫu.

Vì vậy, muốn có phẩm hạnh đạo đức tốt thì phải siêng năng đọc và trì Kinh Địa Mẫu, sau mới bước vào con đường Tu Đạo Hạnh. Để con đường tu đạo được mở rộng, phải luôn nghĩ tới và hồi hướng công đức cho tất cả chúng sanh, cho nên cần phải cầu xin cha Ngọc Hoàng hoan hỉ xá tội cho chúng sanh và khấn nguyện Mẹ Địa Mẫu giúp cho muôn loài được an nhàn trường cửu, thì con đường tu đạo mới đắc thành.

Và kể từ đây, những nghi vấn trong tự nhiên dần được giải đáp…

1. ĐIỂM XUẤT PHÁT CỦA TRỜI ĐẤT

Từ lúc ban sơ, trên mặt đất và bầu trời là một màu tăm tối mù mịt, trời đất không định rõ phương hướng và thời gian. Mẹ Địa Mẫu mới phân ra trời là dương, đất là âm. Khi ấy, hai luồng khí âm dương giao cảm, quấn tròn vào nhau, tạo ra bầu khí quyển mang sinh khí cho vạn vật. Tiếp đến, mới hoá sanh ra loài người.

Trong càn khôn vũ trụ, Mẹ quản ba ánh sáng: Tinh, Nhật, Nguyệt và gồm bốn phương chánh trụ: Đông, Tây, Nam, Bắc. Kết hợp với Tây Bắc, Tây Nam, Đông Bắc, Đông Nam thành tám hướng, để giúp con người định vị các hướng ở mặt đất. Còn lại trên cao không trung được gọi là trời. Vì thổ khí là đại diện cho Mẹ Địa Mẫu nên những ngày có thiên can Mậu, Kỷ được chọn là ngày tưởng niệm về Mẹ bởi Mẹ bao dưỡng cho tất cả muôn loài trên trái đất, từ thời khai thiên lập địa cho đến nay.

2. LOÀI NGƯỜI ĐẦU TIÊN ĐƯỢC SANH RA

Theo kinh sách ghi lại, được dựa trên 10 thiên can và 12 địa chi, kết hợp giữa linh khí âm dương của Trời và Đất, giao cảm hợp thành, tạo ra một luồng chơn khí vô cùng tinh anh, và từ đó thánh thai mới được hình thành, rồi Mẹ truyền điển chơn tánh hiền lành sang, nên loài người khi ấy rất thuần khiết và lương thiện. Sau đó, thân Mẹ cưu mang luồng chơn khí ấy trong suốt 10 năm, mới hóa sanh ra loài người đầu tiên.

Là 6 vị thánh đế minh quân lần lượt xuất thế theo thứ tự: thứ nhất vua Thiên Hoàng, thứ hai vua Địa Hoàng, thứ ba vua Nhơn Hoàng, thứ tư vua Phục Hy, thứ năm vua Thần Nông và thứ sáu là vua Hiên Viên. Cứ như thế, con người bắt đầu có vòng luân hồi, xoay chuyển mãi không dừng. Cho nên, có thể nói các vị vua hiền chúa thánh, cũng đều do Mẹ Địa Mẫu tạo ra.

3. NGƯỜI TÌM RA LA BÀN, LƯƠNG THỰC VÀ Y PHỤC

Phải kể đến 3 vị thánh đế đã có công khai mở cho loài người. Bắt đầu từ vị thứ tư, vua Phục Hy, đã tìm được sự biến hóa của Trời Đất, tạo ra cách tính thời gian, âm dương ngũ hành. Đồng thời, Ngài dựa trên hai khí âm dương có trong càn khôn vũ trụ và bốn phương tám hướng trên mặt đất, để tạo thành Bát Quái Tiên Thiên, hay còn gọi là La Bàn. Đến vị thứ 5 là vua Thần Nông, đã tìm thấy được các loại ngũ cốc và sáu hạt giống lương thực đa dạng. Sau cùng, vị thứ 6 là vua Hiên Viên, đã nghĩ ra cách làm nhiều y phục với những vật dụng cần thiết cho người đời, chẳng sót món nào.

Nhờ hai đời vua Thần Nông và Hiên Viên mà muôn dân có được cơm ăn áo mặc. Tất cả, đều nhờ công ơn của Mẹ Địa Mẫu đã âm thầm trợ giúp cho mùa màng, đất đai được tươi tốt.

4. ĐỊA MẪU CHƠN KINH ĐƯỢC MẸ GIÁNG TRUYỀN

Vào thời nhà Thanh, vua Quang Tự, lên ngôi đến năm thứ 9. Nhằm ngày mùng Chín, tháng Giêng âm lịch tại Miếu Bà, phủ Hớn Trung, huyện Thành Cổ, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc có ghi rõ, Phật Mẫu đang ngự trên chim Loan hiện xuống và truyền dạy kinh này.

Trong nhiều kiếp tái sanh của các chư Phật, Bồ Tát cũng đều nằm trong thân Mẹ, chẳng có vị nào lìa xa. Thậm chí ở khắp hướng Đông, Tây, Nam, Bắc trên đất liền hay các xứ sở bao trùm bốn biển, có bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông và tám tiết trời với kênh rạch, sông hồ, biển sâu, núi cao, rừng thẳm, cổ thụ ngàn năm. Kể cả các đời Đế Vương đại danh, lớn bé trong cung điện cho đến 72 vị thần trông coi đời sống cho chúng sanh. Hay năm loại ngũ cốc và sáu hạt giống lương thực tươi xanh, cây cối và muôn loài, động vật, cũng đều do Mẹ tạo ra. Từ đó mà sử sách có câu:“Sanh tại thế, tử hườn tại thế”, có nghĩa là con người khi sanh ra, nhờ thực vật Mẹ ban mà trưởng thành. Lúc chết đi, thân xác chôn dưới đất, cũng trở về trong thân Mẹ.

Những phẩm tước trước sau của các bậc Thần, Tiên, Thánh hay những Hiền Tử lớn nhỏ cũng đều được Mẹ sắc phong. Hoặc với các chư Phật có kim thân bất hoại, nghĩa là sau khi các Ngài viên tịch, thân xác còn nguyên vẹn nên hình tướng ấy sẽ được giữ lại để thờ cúng ở những nơi linh thiêng. Tất cả cũng nhờ có Mẹ chứng quả nên mới đắc thành chánh giác. Sự chứng quả đó, còn quý hơn cả trân châu, bửu ngọc ở bốn phương trời. Cho dù có làm tốt đến mấy nhưng nếu, thiếu đi sự công nhận của Mẹ thì đâu thể đắc thành sở nguyện được.

Hãy nhìn lại mà xem trong các vương quốc lớn nhỏ, hay các Đế Vương, nếu thờ Mẹ với sự trang nghiêm và tôn kính thì sẽ được ban ơn thịnh quốc. Còn nước nào ỷ thế hà hiếp, áp bức, Mẹ sẽ chuyển phạt nên mới có cảnh, quan quân tranh đấu khởi nghĩa. Cho nên những nơi như Am tĩnh, Quán xá, Thư viện, Lâu đài ở các Phủ, Huyện, Quận, Châu, có những cuốn Kinh được sao chép đều trích từ văn tự gốc của Mẹ, mới có những lời hay ý đẹp.

“Để nuôi dưỡng các con, Mẹ ban rất nhiều lúa gạo, bông hoa, cây trái, đủ thứ rau củ quả hay các gia vị thường dùng như chua, ngọt, đắng, cay có cả đường, hành tỏi, tiêu ớt với hẹ, củ nén, kiệu và gừng. Biết một số nam nữ kén chọn khẩu vị, nên Mẹ tạo thêm dầu, tương, muối, giấm để cho các con dùng cho vừa miệng. Cả thắt lưng, vải thô, trang sức, lụa là… cũng do Mẹ ban cho, vạn sự đều được Mẹ lo và vun dưỡng trưởng thành.

Mọi thứ Mẹ tạo ra, Mẹ luôn hết lòng chăm sóc và tái tục kể cả tiền bạc và những vật dụng khác cho các con. Ngay cả có những chứng bệnh lạ sanh ra ở con nít, đàn bà hay đàn ông, Mẹ cũng nghĩ ra nhiều phương thuốc để giúp các con phòng ngừa và điều trị. Công lao ấy, không có bút mực nào tả xiết. Nơi Quả Địa Cầu này, Mẹ tích trữ rất nhiều lương thực, thực phẩm và ban nguồn tri thức dành cho 6 cõi luân hồi gồm Ngạ Quỷ, Súc Sanh, Địa Ngục, Atula, Cõi Người và Cõi Trời để tìm hiểu và dùng chẳng bao giờ cạn.

Sử sách còn có câu: “Phụ Mẫu ái tử chi tâm, vô sở bất chí”, nghĩa là: “Tình Mẹ thương con cho dù khổ cực đến mấy, Mẹ cũng không quản ngại. Mẹ đã dồn hết lực vào các con như thế đó. Vậy mà chẳng thấy các con nhớ ơn hay biết kính trọng đến người Mẹ này?”

5. ĐẰNG SAU NHỮNG GIỌT MƯA

Hầu như khắp chốn thế gian chỉ biết Trời là lớn hơn hết, chớ nào có ai biết đến Mẹ. Thế nhưng, ít ai biết rằng Mẹ Địa Mẫu và Cha Ngọc Hoàng đều đồng nhất thứ. Cho nên hễ trên Trời có mưa đổ xuống, thì dưới Đất sẽ sanh ra các loại ngũ cốc đầy đồng.

Thật sự chẳng ai biết nguồn gốc, những giọt mưa ấy là được hút trong “cốt thuỷ tinh vi của Mẹ”, có nghĩa lấy từ nguồn nước tinh tuý trong thân Mẹ chiết ra. Sau đó, mới hóa lên không trung, kết tụ lại thành từng đám mây, khi gặp luồng điện quang chiếu vào, sẽ phát ra tiếng vang lớn, thường gọi là sấm sét. Lập tức, liền tan thành hơi và hòa lẫn vào trong không khí. Hỗn hợp khí đó sẽ kết dính, tạo thành những giọt nước, rồi rơi xuống mặt đất, đó chính là mưa. Hiện tượng ấy, dần trở nên quen thuộc và không thể thiếu trong tự nhiên. Các sông ngòi, hồ, suối cũng được hình thành từ đây.

Người xưa cho rằng: mưa, sông, suối đều do thần Rồng tạo ra. Nên nơi nào có thần Rồng xuất hiện, ẩn hình trên đám mây, thì nơi đó sẽ đổ mưa, nhưng không ai biết, Ngài cũng là một trong những vị thần do Mẹ tạo ra, để cai quản nguồn cốt thuỷ tinh vi của Mẹ, giúp cho muôn nơi có được mưa thuận gió hòa.

READ  Người Yêu Của Han Sara Là Ai ? Tiểu Sử, Năm Sinh, Chiều Cao Han Sara – Tranminhdung.vn

6. LỜI GIÁO HUẤN CỦA MẸ ĐỊA MẪU

Bao nhiêu nhọc nhằn cay đắng Mẹ âm thầm chịu đựng, nhưng người đời mấy ai hiểu thấu. Mẹ đau lòng xót dạ khi thấy chúng sanh gặp nạn tai. Mẹ Địa Mẫu đã dạy: “Từ ngàn xưa đến nay, Mẹ chẳng hề nhắm mắt, vì nếu Mẹ nhắm mắt, sẽ có nạn lớn liền xảy ra cho các con. Cho dù mệt mỏi đến mấy, Mẹ cũng không thể xoay lưng bỏ mặc, để cho Ma Vương thừa cơ phá nát. Lúc đó, Trời và Đất sẽ trống rỗng trở lại như lúc ban sơ. Cả Trời, Đất, Thần, Thánh và mọi thứ đều bị thiêu rụi giống như trong lò bát quái. Chẳng còn biết đâu là hướng Đông, Tây, Nam, Bắc. Đến chừng đó, muôn loài vạn vật sẽ thành ra tro bụi mà thôi”.

Các con không biết Mẹ danh tánh thế nào thì hãy lắng nghe cho kỹ đây. Có một Lão Bà, được sanh từ thuở Trời Đất còn mù mịt, hỗn độn. Người đàn bà ấy chính là Mẹ. Lúc đó, Mẹ sống ở đời được 12 muôn kiếp, thọ hưởng 9.600 tuổi. Trong thời gian ở trần thế, Mẹ đã lao tâm khổ trí với muôn ngàn cay đắng để dạy dỗ khuyên răn các con. Đến khi hoàn thành xong mọi việc ở trần gian, Mẹ đành phải từ giã đàn con để trở lại Thiên Đình. Mẹ hóa thân nhanh như chớp, đi vào cõi hư không vô thượng và ngay lúc đó hào quang chiếu rọi khắp thế gian.

Từ trai đến gái, ai cũng đều nhận thọ ơn của Mẹ mà chẳng biết nhớ thương hay nghĩ tới ân sâu của Mẹ, nhưng Mẹ nào có phiền trách các con. Nếu các con thật sự muốn gặp lại Mẹ, thì hãy ráng trì Kinh Địa Mẫu, để tu Hạnh Đạo cho thật tốt. Chờ sau thời mạt pháp vào thời điểm hội Tý hoặc hội Sửu, Mẹ con ta sẽ trùng phùng. Cuốn Địa Mẫu Chơn Kinh này đều là lời chánh truyền của Mẹ thuyết ra, chớ nên nghi ngại mà lạc lầm. Nếu nhà nhà đều biết trì niệm thường xuyên, thì mùa màng sẽ được bội thu, cuộc sống ấm no đầy đủ và hạnh phúc. Chẳng phải lo bị nạn tai dồn dập, mà còn được hưởng thêm tuổi thọ ở dương gian.

Còn nếu chẳng nghe lời Mẹ khuyên bảo, thì Ma Vương sẽ lợi dụng thời cơ ấy mà quấy phá, làm cho mùa màng bị thất bát, cháy rụi, chẳng còn một hột gạo để ăn. Nếu chẳng tin những lời Mẹ dạy bảo, thì sẽ lao vào đại kiếp hỏa phong, nạn ấy vô cùng lớn và rất khủng khiếp.

Đối với các bậc Phật, Tiên, Thánh Hiền mà tu đạo chưa tròn, theo đúng con đường chơn lý trong Kinh Địa Mẫu thì cần phải khiêm tốn, chớ nên khoe tài ở chốn đông người. Còn Quần thần Văn Võ hay những bậc Trí thức, Học giả, Nông gia, Thầy thợ, Thương nhân khi đạt được danh lợi mà quên đi chơn lý trong Kinh Địa Mẫu này, cũng xem như quên hết Ơn Nghĩa của Mẹ.

Nếu các con chẳng biết đền đáp mà bội nghĩa, nghi ngại, không tin chơn truyền nhiệm mầu của Mẹ, cứ tự hành theo ý riêng lại đi sai chánh pháp thì muôn kiếp chẳng thể tái sinh làm người được nữa.”

7. TRUYỀN BÁ KINH

Theo Kinh Địa Mẫu, nếu ai hiểu thấu đáo chơn lý trong kinh mà muốn truyền bá phổ biến rộng rãi, giúp cho người đời hiểu rõ ý nghĩa thì khi ấy, Mẹ sẽ kiểm tra sự hiểu biết của người được nhận Kinh. Nếu quả thật người này rõ Chơn Lý Diệu Mầu, Mẹ sẽ liền độ ngay cho người truyền bá Kinh, có được tâm sáng suốt và trí tuệ phi thường. Mẹ còn đích thân truyền chơn khí sang, để người con này luôn được thần bảo hộ, thậm chí còn có thể được nhìn thấy chơn thần của chính mình. Nếu người này muốn học đạo, cần chuyên tâm tu dưỡng tâm tính thì mới có được hạnh quả cao. Con nếu muốn đạt những năng lực ngoại cảm, thần thông thì Mẹ sẽ chỉ dẫn từng bước để con đường Tu Đạo Hạnh được mở rộng.

Còn người có địa vị cao, hiểu nghĩa thấu Kinh Địa Mẫu mà tạo điều kiện giúp cho người dân hiểu rõ và truyền bá đầy đủ, Mẹ sẽ ban cho con cháu người ấy được hưởng lộc hoàng gia, thiên thu vạn đại. Hay vị phu nhân nào hiểu hết ý nghĩa và phổ biến Kinh Địa Mẫu, thì con cháu đời đời sẽ được thọ hưởng vinh quang phú quý. Đối với những thiện nam tín nữ muốn truyền bá, in kinh Địa Mẫu cho mọi người được rõ, Mẹ sẽ ban cho người ấy sanh con như nguyện vọng, và luôn có con cháu đời đời nối dõi.

8. NHỮNG NGÀY VÍA CỦA MẸ ĐỊA MẪU

Hàng năm vào ngày 18/10 âm lịch được chọn làm ngày Vía Giáng Thế, kỷ niệm ngày Mẹ đã Khai Thiên Lập Địa. Ngoài ra, còn có những ngày Mậu, ngày Kỷ hàng tháng cũng là ngày tưởng nhớ về Mẹ. Các nghi thức lễ gồm có Hoa, Quả Trái Cây, 6 ngọn nến, 6 ly nước lọc và 5 nén hương và một cuốn Địa Mẫu Chơn Kinh, trang phục nghiêm trang để tưởng nhớ công ơn Mẹ, đã khai sanh ra muôn loài.

Nếu hướng cho cả nhà cùng trì Kinh Địa Mẫu với sự biết ơn thì người con hiếu nghĩa này có dâng sớ khẩn cầu, Mẹ sẽ chứng giám lòng thành ngay lập tức. Nếu vợ chồng đồng tâm cúng bái, dâng hương mà không bỏ lỡ ngày nào, Mẹ sẽ ban tuổi thọ và cả đời hưởng lộc triền miên. Còn tỉnh hoặc thành phố nào tập trung lập đàn, cúng lễ vào những ngày đó, Mẹ sẽ bảo vệ cho những người nơi ấy được bình an. Đối với quốc gia nào hết lòng lập đàn vào những ngày Vía mà không bỏ sót, Mẹ ban nhiều nhân tài, Thánh nhân hạ phàm để trợ giúp cho người dân nước đó được sáng suốt và tránh được những nạn kiếp.

9. LẬP CÔNG ĐỨC

Nếu ai tin những diễn giải trong Địa Mẫu Chơn Kinh là có thật, muốn đền ơn đáp nghĩa cho Mẹ, thì từ bây giờ phải biết chăm lo thờ phụng, dâng hương chu đáo. Hoặc có thể vẽ, in, thêu thành một bức tranh hoặc đúc ra tượng Mẹ thật nghiêm trang, để mọi người sùng bái tôn kính. “Hãy gắng sức thành tâm, tạo lập công đức tùy theo gia cảnh của mỗi người. Vì Mẹ chỉ chứng lòng thành của các con chứ không quan trọng vật chất. Ở cõi Hư Không Vô Thượng, Mẹ sẽ ghi tên các con trên Bản Ngọc Đề Danh ở Cung Diêu Trì.

Nếu con không sát sanh, hại mạng và luôn có lòng từ bi bác ái với muôn loài thì Mẹ sẽ ban cho con tuổi thọ. Còn nếu con vì Mẹ mà hết lòng tận trung, tận hiếu và luôn nghĩ tới việc đền ơn báo đáp, thì đến ngày con chấm dứt dương thọ ở thế gian, Mẹ sẽ đến đón và ban cho con một tước vị cao sau khi về trời. Mẹ sẽ ban thưởng cho con một tòa sen vàng chín phẩm. Nếu vợ chồng cùng đắc thành chánh quả, sẽ được trở về Trung Ương Thượng Quốc ở cõi trời Đại La kia, một nơi vô cùng an vui, an lạc. Người đời gọi đó là Thế Giới Tây Phương Cực Lạc.”

10. Ý NGHĨA NIỆM HỒNG DANH

Câu: “Nam Mô Vô Thượng Hư Không Địa Mẫu Dưỡng Sanh Bảo Mạng Chơn Kinh”.

Trong đó từ “Nam Mô” có ý nghĩa là Quy Y, “Vô Thượng Hư Không” được hiểu là chân không, ý nói tâm luôn trống không, vắng lặng, không vọng động. “Địa Mẫu Dưỡng Sanh Bảo Mạng” ý nói Mẹ Địa Mẫu đã tạo ra và vun dưỡng muôn loài, nên khuyên chúng ta không nên sát sinh. Còn “Chơn Kinh” là truyền những điều hay lẽ đúng.

Từ đó khi niệm hồng danh “Nam Mô Vô Thượng Hư Không Địa Mẫu Dưỡng Sanh Bảo Mạng Chơn Kinh” được hiểu là Hãy trở về làm theo những điều đúng, giữ cho tâm không vọng động, luôn biết ơn Mẹ Địa Mẫu đã tạo ra muôn loài, không sát sanh, hại mạng chúng sanh”.

11. CÁC HÌNH TƯỚNG CỦA MẸ ĐỊA MẪU

Vì Mẹ đã phải trải qua biết bao nhiêu khổ hạnh, vun đắp dưỡng thành và dạy dỗ các con, tạo lập công đức vô lượng, nên Mẹ ngự ở tầng thượng tối cao và được danh thơm tiếng tốt, lưu truyền vạn thế.

Nên hình tướng của Mẹ là thiên biến vạn hóa không thể nghĩ bàn, tùy theo tâm tưởng của các con hướng tới Mẹ như thế nào, thì Mẹ sẽ ứng hiện cho phù hợp theo ý niệm đó, cho nên Mẹ mới có nhiều hồng danh khác nhau. Chung quy tất cả những hình tướng đó cũng đều là Mẹ đến để trợ duyên, giúp đỡ cho các con tăng trưởng Đức Tin đối với Mẹ.

Từ đó, các con mới nghe và làm theo những lời khuyên răn dạy bảo của Mẹ, để giúp cho tâm con được sáng suốt và luôn có lòng từ ái. Bởi khi các con biết tu dưỡng tâm tánh thì con đường trở về bên Mẹ sẽ được gần hơn.

Chúng con xin thành tâm đảnh lễ và cùng Tạ Ơn Mẹ Địa Mẫu đã giúp đỡ, che chở cho chúng con, có được sự sáng suốt trong tâm linh. Nam Mô Vô Thượng Hư Không Địa Mẫu Dưỡng Sanh Bảo Mạng Chơn Kinh.

NHỮNG NGƯỜI THỰC HIỆN
Biên soạn Lữ Trung Dung
Luận nghĩa Nguyễn Trung Hậu
Cố vấn

Trương Ngọc Châu

Từ Lê Phương Thảo

Nguyễn Thị Minh Hảo

Lê Ngọc Bảo Thy

Hỗ trợ

Nguyễn Xuân Bình

Nguyễn Thị Hậu

Đoàn Việt Thư

Lê Thị Thu Khánh

Phật Mẫu Diêu Trì là ai?

Kim Mẫu: là từ nói tắt của danh hiệu: Kim Bàn Phật Mẫu, nghĩa là Đức Phật Mẫu chưởng quản Kim Bàn nơi Diêu Trì Cung. Kim Bàn hay Kim Bồn là nơi Đức Phật Mẫu chứa các nguyên chất để tạo ra chơn thần cho vạn linh.

Kim: - Vàng, vua loài kim. - Màu vàng. - Quí báu như vàng. - Tiền bạc. Mẫu: Mẹ.

Kim Mẫu là nói tắt danh hiệu: Kim Bàn Phật Mẫu, là Đức Đại Từ Mẫu nơi cõi thiêng liêng.

* Diêu Trì Kim Mẫu là Đức Phật Mẫu chưởng quản Kim Bàn nơi Diêu Trì Cung.

* Phật Mẫu Diêu Trì là Đức Phật Mẫu ở Diêu Trì Cung.

Đây là hai danh hiệu của Đức Phật Mẫu.

NGHĨA " DIÊU-TRÌ KIM-MẪU "

Chữ Diêu, hoặc chữ Dao cũng được, có nghĩa là ngọc diêu, một thứ đá quí báu ( pierre précieuse ).Chữ Trì nghĩa là ao nước, hay là hồ nước.

Hai chữ Diêu Trì hiệp lại có nghĩa là : Ao hay hồ nước, trong đó có nhiều ngọc quí báu. Đây có nghĩa là một cảnh trí, một cung điện, ở trên một chót núi Hi-mã-lạp-nhã (Himalaya), làm ranh giới giữa nước An Độ và nước Trung Hoa, gọi tên núi là Côn Lôn. Ai có coi truyện thần tiên thì biết đó là chỗ Ngọc Đế ngự và nhiều vị Đại Tiên tu luyện.

Chữ Kim là vàng, cũng có nghĩa là các loại kim, như bạc, đồng, chì, sắt . . .thuộc về Tây phương. Theo Bát quái hậu thiên (Lạc thơ), Kim nầy ở ngôi Đoài, mà Đoài là Âm kim.Chữ Mẫu là mẹ, là chủ tể, thuộc về hữu hình. Như cuốn Đạo Đức kinh nói: "Hữu danh, vạn vật chi mẫu.", nghĩa là chừng Đạo có hình, có tên, Nó là mẹ sanh muôn vật.

Người ta thường hiểu chữ "mẫu" theo nghĩa thông thường, là người đàn bà sanh con, nên gọi Đức Diêu Trì Kim Mẫu là Bà Tây Vương Mẫu.

Theo sách vở của người Trung Hoa, Ngài là một vị Thần Tiên từ đời xưa, xa xăm. < . . .>

Tây Vương Mẫu cũng là một vị ban thuốc trường sanh. Ngài trở thành một vị chủ tể vườn đào,. Ơ cõi trên trời, và cai quản các vị thần tiên cõi đó, có khác hơn cõi ta ở dưới trần nầy là đặng sống lâu và hưởng vô cùng khoái lạc (jouit d’une félicité parfaite). Vườn Tây Vương Mẫu ở trên chót núi Côn Lôn – như tôi đã nói ở trên. Ngài ở trong lầu các bằng ngọc, có 9 từng huyền thất và chung quanh có vách thành bằng vàng.

Trong lầu có đơn phòng Tử Túy, bên trái có ao Diêu Trì, bên mặt có sông Huờn Túy. Dưới chơn có 9 từng nhược thủy ( nước yếu ), sóng cao muôn trượng, không có tiên xa ( xe nhờ bạo phong thổi đi ), vủ luân ( bánh xe bằng lông chim ) thì không thể nào đi đến đó được. < . . . >

***II. NGHĨA " VÔ CỰC TỪ TÔN "

Tại sao gọi Đức Diêu Trì Kim Mẫu là Vô Cực Từ Tôn ?

Có lẽ chư đạo hữu còn nhớ nghĩa Tam cực đã có giải nhiều lần. < . . .>

Tam cực nghĩa là Ba ngôi cực cao cả, gọi là :

1. – Vô cực2. – Thái cực3. – Hoàng cực

1)- Vô cực là gì?

Vô cực nghĩa là cực vô, trong đó cực kỳ trống không, chẳng có gì khác lạ hơn nó nữa, gây ra các sự trở ngại cho Nó, nên gọi là Khí hồn nhiên. Tuy vậy mà Nó đủ các đức tính tiềm tàng, còn kín đáo, ẩn núp, cũng như con gà còn trong trứng gà, chưa có lộ hình dạng mà ta có thể thấy được. Cũng như trong một hột giống lúa, tuy ta chưa thấy cây lúa, mà trong đó có đủ sinh lực để sanh ra sau nầy cây lúa vậy.

Đạo Đức Kinh gọi cái đó là: "Đạo tự hư vô sanh nhứt khí", nghĩa là từ trong Đạo hư vô mà sanh ra Nhứt khí. Nhứt khí có ba phương diện hay là Ba ngôi, mà ngôi Thứ nhứt gọi là Vô cực.

2)- Thái cực là gì?

Thái cực nghĩa là cực thái hay là cực đại. Từ trong Vô cực là ngôi thứ nhứt lại có một điểm khí dương phát sanh. Hễ khí động phát sanh tức là khí dương, thì phần tịnh còn lại là khí âm. Cho nên Kinh Dịch nói : " Thái cực sanh lưỡng nghi" , nghĩa là Thái cực sanh ra khí âm và khí dương. Đạo Đức kinh gọi là Một sanh ra hai. Đây là ngôi thứ nhì của Nhứt khí, mà ngôi Thứ nhì gọi là Thái cực.

3)- Hoàng cực là gì?

Hoàng nghĩa là ông vua. Cực là cực cao như nói trên. Cũng gọi là Nhơn cực hay là cái phần tinh thần, phần tâm linh cực cao, chẳng phải ở trong vua chúa mà thôi, như người xưa hiểu , mà ở trong tất cả mỗi con người. Nói theo Nho giáo, thông thường, ta có thể gọi Nó là Lương tâm, là Lương tri, Lương năng, là Tánh lý, là Thiên lương, là Thiên chơn, . . .

Thái cực (thèse) sanh ra âm dương, mới có hai bên tương đối (anti thèse), còn Hoàng cực, đây có nghĩa là hổn hiệp âm dương (synthèse) , mói có xuất ra vạn pháp. Nếu không có âm dương tương hiệp, thì làm sao sanh hóa được ! Nên Kinh Đạo Đức nói: "Hai sanh ba", là âm dương hiệp sanh ra Hoàng cực.

Vậy thì Ba ngôi chỉ có Nhứt khí, mà mỗi ngôi đều có một vai tuồng riêng biệt, chẳng giống nhau mà luôn luôn bổ túc cho nhau. Tuy phân ba thời kỳ cho dễ hiểu, kỳ thiệt là Ba ngôi cùng đồng thời, phân cao hạ.

Đức Diêu Trì Kim Mẫu vẫn có một vai tuồng đặc biệt, thuộc về ngôi Vô cực, nên lấy hiệu là: Vô cực Từ Tôn. Nghĩa là Ngài đại diện cho ngôi Thứ nhứt là ngôi Vô cực.

Sao gọi là Từ Tôn ?

"Từ" là nhân từ, từ bi, có lòng thương xót, độ dẫn tất cả chúng sanh. Như theo thế gian, mẹ thuơng con một cách diệu hiền nên gọi là từ mẫu, từ thân. Trái lại, đối với cha, thì dùng chữ nghiêm, nghĩa là nghiêm minh, nên gọi là nghiêm phụ, nghiêm quân.

"Tôn" là cao cả, bực rất mực tôn nghiêm. Hoặc gọi là Thiên tôn, nghĩa là bực cao cả, tôn nghiêm, ỏ trên các từng trời, hay là trên thiên đàng.

ĐỊA MẪU CHÂN KINH ( Chú Giải )

Hồi mới tạo Thiên lập Địa, Vua Bàn Cổ xuất thế trị đời trước nhất, Ngài mới sắp đặt ngôi thứ, vì lẽ tự nhiên Ngài phong tặng cho Mẫu đây đến bậc tối cao tối đại.

Âm Dương hai khí đủ rồi mới kết cấu cùng nhau hiệp thành hôn phối. Nhờ có mưa thuận gió hòa, hiệp tác mới hóa sinh muôn loài vạn vật. Ấy vậy ai mới bước vào đường đạo đức thì phải trì kinh Địa Mẫu này trước hơn hết mới nhằm đạo hạnh. Trên thì cầu xin với Hoàng Thiên hoan lạc hỉ xả tội lỗi cho tất cả chúng sinh. Còn dưới thì khấn nguyện cùng Địa Hậu vui lòng bảo hộ muôn dân cho đặng an nhàn trường cửu.

Kể từ đấy Đất – Trời đã phân biệt rồi, chẳng còn mù mịt mờ ám như khi trước nữa. Đất là Âm, Trời là Dương. Âm Dương mới khắng khít cùng nhau chẳng hề rời rã. Thông đồng khắp cả cùng Trời Đất thấu đáo Nhật – Nguyệt – Tinh là ba ánh sáng và bao trùm tất cả Càn Khôn Vũ Trụ chẳng sót hướng nào; Bắc, Nam, Đông, Tây là bốn góc chính trụ. Hiệp với Tây Bắc, Tây Nam, Đông Bắc, Đông Nam là tám hướng bao vòng quanh nơi ngoài gọi là Trời đó. Còn Mẫu đây, Mẫu cố thủ trung ương ( trung tâm ) Mồ Kỷ ( Mậu – Kỷ ) gọi rằng đất. Bởi vậy cho nên Mẫu bao đường cho muôn loài từ hồi đời Tiên Thiên nhất khí, còn gọi là đời thượng cổ dĩ chí đời hậu thiên gọi là đời hậu lai ác thế cầu trọng. Còn phu quân Mẫu vốn thật là một vì Đồng Tử trường sinh bất lão, huyền diệu cao minh vô cùng. Ngài thì điếc, còn Mẫu đây thì câm đôi ta kết bạn cùng nhau rất nên hòa nhã, sách có chữ rằng: Thiên lung Địa á. Thần cũng là Dương, Khí cũng là Âm, lúc ban sơ Dương thịnh Âm suy phối hiệp mới sinh ra Trời Đất.

Đến chừng tạo Thiên lập Địa rồi thì Dương khứ Âm lai, Khí Thần giao cảm mới hóa sinh ra loài người hiền lành chân chính. Chân Khí là Mẫu đây. Mẫu mới thật là Âm Khí. Còn Chân Thần thì biến trở lại làm chúng sinh của Mẫu. Chân Thần là nhất điểm linh quang ấy là Dương Khí đó. Âm Dương hội hiệp gọi rằng Đấng Tạo Hóa. Tạo Hóa ra Thiên Địa trước hết, rồi sau mới hóa sinh ra Chúa – Thánh – Tôi – Hiền. Tuy là chẳng thấy Âm Dương giao cấu như phàm phu tục thế nhưng mà có thật vì Thiên Can với Địa chi thường thường luân chuyển sinh sinh hóa hóa ra hoài chẳng dứt. Tám sưu là mười hai, ấy là Thập Nhị Địa Chi: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Còn nhị bát là mười, ấy là Thập Thiên Can: Giáp, At, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý. Can – Chi là Âm – Dương đó. Tử với Mẫu chẳng rời nhau thì thọ thai liền. Thai nghén cưu mang như vậy cho đến 10 năm chẵn. Mười năm chẵn thét mới đúng quẻ hào đã định, vì trong Bát Quái có phân chia 8 hướng, mỗi một hướng chia ra là 8 quẻ, mỗi quẻ ra là 6 hào, cộng chung lại là 64 quẻ, tẻ ra làm 384 hào. Đúng giờ mãn nguyện trúc cơ, thì trong thân của Mẫu xuất hiện ra 6 vị Thánh Đế Minh Quân kể ra dưới đây: Một là Vua Thiên Hoàng, hai là Vua Địa Hoàng, ba là Vua Nhân Hoàng, bốn là Vua Phục Hy, năm là Vua Thần Nông, sáu là Vua Hiên Viên. Qua đến đời Vua Phục Hy thì Ngài đã hiểu rõ máy biến hóa ra Trời Đất. Ngài bèn phân định 2 khí Âm Dương và họa ra một cái Bát Quái Tiên Thiên rõ 8 hướng trong Càn Khôn Vũ Trụ. Đến đời Vua Thần Nông thì Ngài tiên đắc tìm kiếm ra được 5 giống lúa và 6 thứ gạo. Đến đời Vua Hiên Viên thì Ngài kiếm ra đủ cách để chế tạo ra y phục và các đồ vật dụng cho người đời cần dùng, chẳng sót món nào.

READ  Tác Giả Truyện Conan Là Ai – Tác Giả Truyện Conan Và Những Điều Có Thể Bạn Chưa Biết

Con người mà đặng ăn no mặc lành kẻ từ 2 đời Vương đó. Rồi lưu truyền kiểu mẫu lại cho hợp thời tiết và hợp phong thổ.

Phật Địa Mẫu phát lạc rằng: 3 kiếp Phật xuất thế, kiếp nào cũng trong thân Mẫu mà ra. Chư vị Bồ Tát cũng vậy. Chẳng có vị nào lìa xa khỏi thân Mẫu này được nữa. Nếu họ ra khỏi thân Mẫu rồi họ nương tựa ở xứ nào cho được bao giờ. Vì bởi khắp cùng Đông, Tây, Nam, Bắc thì đã có 4 Bộ châu bao chùm tất cả các xứ rồi. Cùng là Xuân, Hạ, Thu, Đông; 4 mùa, 8 tiết trở xoay cũng do Mẫu tạo thành. Nào sông rạch, hồ, biển đâu đâu cũng chẳng rời khỏi thân Mẫu. Cùng muôn nước 9 Châu cũng do nơi Mẫu vun dưỡng trưởng thành. Trải qua các đời Vương Đế đại danh chưa có ai ra khỏi thân Mẫu. Cùng cả thảy lớn bé trong Cung Điện cũng do nơi Mẫu vun dưỡng trưởng thành. Khắp trong thiên hạ có Mẫu Nhạc là 5 danh sơn thắng cảnh hơn hết. Cùng là núi cao rừng thẳm cổ thụ ngàn năm, cũng do nơi Mẫu vun dưỡng trưởng thành. Các sắc nhân dân trăm họ đâu có ai lìa ra khỏi thân Mẫu được. Cùng 5 giống lúa 6 thứ gạo cũng do nơi Mẫu vun dưỡng tốt tươi. 72 cảnh thanh lương địa kia chẳng phải ở ngoài thân Mẫu này được. Cùng muôn loài cầm thú cây cỏ cũng do nơi Mẫu vun dưỡng trưởng thành. Con người trần thế mà sống đặng đây thì cũng nhờ ăn uống vật thực của Mẫu mới sống. Đến chừng chết rồi cũng phải chôn thây cất xác trở vào mình Mẫu. Sách có chũ rằng: sinh tại thế, tử hườn tại thổ. Tất cả Châu, Quận, Phủ, Huyện cũng chẳng rời khỏi thân Mẫu được. Nào am tĩnh, quán xá, thư viện, lâu đài cũng nhờ lấy tài liệu và vật chất trong thân thể của Mẫu mới làm ra được vững bền tốt đẹp.

Thánh Thần Tiên Hiền lớn nhỏ cũng nhờ Mẫu phong thưởng bày đặt lớp lang. Còn các chư Phật mà đặng kim thân bất hoại thì cũng nhờ Mẫu chứng nhận công quả cho mới đắc thành chánh giác. Huỳnh kim là vàng ròng của Mẫu ban bố hun đúc ra vóc ngọc mình vàng của các chư Phật kia. Thật là quý báu hơn tất cả chân châu bửu ngọc trong bốn phương trời. Thiếu chi người ham muốn vọng tưởng đến chừng kết cuộc rồi có mấy ai được đắc thành nguyện. Còn nào là những vàng thoi bạc nén, cùng các loại kim khí khác cũng do nơi Mẫu sản xuất mới có.Vậy chúng con xét lại đó mà coi có còn sót món nào ở ngoài thân Mẫu này đặng chăng? Các nhà Vương hầu tiểu nhược quốc nhờ Mẫu phong tặng tôn kính. Còn trải qua các nhà Đế Vương đại cường quốc thì cũng nhờ Mẫu sùng tôn cho mới được an hưởng thạnh trị lâu dài. Nước nào mà bị giặc giã cưỡng bức lấn lướt cũng do nơi Mẫu vận chuyển phạt hành mới có cảnh quan đấu khởi. Vậy mà chẳng thấy nước nào biết trọng kính đến thân danh của Lão Mẫu ráo trọi.

Lãnh, nhiễu, the, lụa, gai thô, … thứ nào cũng do Mẫu sản xuất. Cùng là bông, hoa, cây, trái, rau cải đủ thứ cũng do nơi Mẫu vun dưỡng trưởng thành. Các loại chua, ngọt, cay, đắng, do nơi Mẫu sản xuất. Cùng thuốc uống, lúa ăn trong 4 mùa cũng do nơi Mẫu vun dưỡng trưởng thành. Hành, hẹ, tỏi, nén kiệu do nơi Mẫu sản xuất. Cùng là gừng, đường, tiêu, ớt cũng do nơi Mẫu vun dưỡng trưởng thành.

Khắp trong thiên hạ, đàn ông chí những đàn bà, con nít đều sinh ra nhiều chứng bệnh. Bởi vậy cho nên Mẫu tạo ra sẵn sàng cả muôn thứ thuốc đề phòng điều trị. Lại cũng có hiếm hạng người nam nữ chẳng ưa dùng tửu nhục mỹ vị. Vì vậy cho nên Mẫu đã tạo sẵn nào là dầu, muối, tương, giấm đặng cho chúng nó dùng cho vừa miệng. Món nào món ấy cũng do nơi Mẫu sản xuất. Trăm ban, vạn sự cũng do nơi mẫu vun dưỡng trưởng thành tất cả. Phật Địa Mẫu than rằng: Mẫu đã lao tâm tổn huyết với chúng con đã tận tuyệt rồi. Công lao tiêu trừ ấy biết lấy bút mực nào mà tả cho hết được. Vì tình Mẹ thương con nam nữ, dầu khổ lao thế mấy Mẫu cũng chẳng sờn. Sách còn có chữ: Phụ Mẫu ái tử chi tâm, vô sơ bất chí, vậy mà chúng con nỡ lòng nào quên dứt ơn sâu nghĩa cả của Mẹ cho đành. Vật ăn phẩm uống trang sức cân đai gì Mẫu cũng tạo hóa. Hễ Mẫu tạo hóa ra món nào, Mẫu hết lòng vun dưỡng trưởng thành món nấy, còn hoài cho đến ngày chung cuộc mà thôi. Mẫu cũng có thể chế biến ra tiền bạc đủ thứ và đủ kiểu cho chúng con mua bán chi dụng hằng ngày. Vậy mà chẳng thấy ai để lòng tưởng niệm đến Mẫu một tiếng coi thử. Trên đời chẳng còn sót món nào ở ngoài thân Mẫu. Ấy vậy mà loài vạn vật cũng hườn lại một tay Mẫu tạo hóa sinh thành tất cả không? Nam mô nhất tâm thành kính. Nam mô A Di Đà Phật, thật y như lời của Mẫu truyền bảo chẳng sai. Trước khi Mẫu hóa sinh ra có một vật thô sản mà thôi. Gọi rằng quả Địa cầu. Rồi nơi quả địa cầu ấy Mẫu tích trữ chẳng biết bao nhiêu tài liệu và phẩm thực, dành để cho sáu ngả luân hồi cần dùng chẳng hay gì hết được.

Trên đời này chỉ có mình Trời là lớn hơn hết mà thôi chứ có ai nào biết đến Mẫu. Chớ như Địa Mẫu này sánh cùng Hoàng Thiên kia cũng đồng một bực đó mà. Khi nào trên trời mưa xuống một giọt nước cam lồ Thủy, thì dưới đất bèn hóa sinh ra các loại ngũ cốc đầy đồng lấp ruộng. Tuy là hạt mưa ngọt ngào trong sạch kia rớt xuống đất đượm nhuần mát mẻ, vậy mà ai có biết đặng gốc hạt mưa ấy bởi nơi đâu mà ra chăng? Cũng bởi hút nước ở trong cốt tủy tinh vị của Mẫu đem lên không trung làm mây, rồi mây ấy bèn đông đặc lại thành giá, giá ấy gặp một luồng điển quang chiếu diệu vào, liền tan ra rơi xuống đất, thành ra mưa đó. Rồng, Cù tàng hình ẩn dạng dưới ngàn sông, muôn suối cũng chưa ra khỏi thân Mẫu được. Bởi vậy cho nên bão tố gió mây gì cũng do nơi Mẫu vận chuyển thực hành tất cả. Nếu Mẫu chẳng điều khiển rồng làm gió làm mây, thì bao giờ ai có thấy Rồng tự chuyên làm mưa xuống xứ nào đặng. Xứ nào mà chẳng có Rồng, Cù tàng hình ẩn dạng ở dưới, hễ nghe lệnh Mẫu hô phong hoán vũ thích lịch lôi đình nơi nào, thì Rồng nơi đó hiện ra làm gió làm mưa liền.

Nhắc tới nhắc lui mà nghe, chớ việc nào cũng do Mẫu vận trù quyết sách cả thay. Vậy mà người đời có mấy ai để tâm xét đến. Mẫu rất đau lòng xót dạ. Nhọc nhằn cay đắng bao nhiêu thì để Mẫu chịu. Còn mặc tốt ăn ngon thì chúng con toại hưởng vui cười. Phật Mẫu phát lạc rằng: từ xưa tới nay, Mẫu chẳng hề nhắm mắt. Hễ Mẫu nhắm mắt lại rồi, ắt có tai to nạn lớn sắp xảy đến cho tất cả chúng sinh liền, chẳng đợi tới giờ nhắm mắt làm cho. Nếu Mẫu xoay lưng sấp mặt trong chừng một giờ, thì con cá Ngao to lớn trở mình lăn qua một cái nó sẽ xủ tiêu sạch bách. Trời thì tan Đất thì rã. Trời Đất đâu có thấy nữa. Trên đời này sẽ thành ra một tràng không thì trống trơn trống lỏng rồi đó. Chừng đó các chư Phật Như Lai cũng phải tàng ẩn ngoài Càn Khôn. Còn chư vị Bồ Tát thì sẽ đào tẩu biệt hình dạng. Nào Vua, Chúa, Quan, Dân đằng sẽ bị diệt tiêu tan rụi hết. Trời Đất Thánh Thần sẽ bị tiêu tan rã rọt, cũng như bị thiêu trong lò bát quái kia vậy. Sẽ chẳng còn biết đâu là Đông, Tây, Nam, Bắc chẳng nhận ra hướng nào cho đặng. Đến chừng đó, muôn loài vật sẽ tan nát biến ra như tro bụi kia vậy.

Phật Địa Mẫu ngự trên cõi thượng tầng tối cao huyền hóa và bảo dưỡng nhân sinh, trải hết lòng lành rất quảng đại như vậy đó.

ĐỨC HỘ PHÁP THUYẾT VỀ PHẬT MẪU NHƯ SAU

Quyền làm MẸ Vạn linh:

Đức Phật Mẫu là bà MẸ thiêng liêng của toàn cả Vạn linh, mà Vạn linh thì gồm đủ Bát Hồn (tức là 8 phẩm Chơn linh) gồm: Kim thạch hồn, Thảo mộc hồn, Thú cầm hồn, Nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn và Phật hồn.

Nhưng tại sao quyền hành của Đức Phật Mẫu lại nhỏ hơn quyền hành của Đức Nhiên Đăng Cổ Phật hay Đức Di-Lạc Vương Phật?

Đức Hộ Pháp thuyết đạo Con đường TLHS giải như sau:

"Bần đạo đi ngang Cung Hỗn Nguơn Thượng Thiên , là nơi Đức Di-Lạc đã thâu pháp, đã định vị nơi ấy. Bần đạo có tả mà trong tâm còn mờ hồ, không biết tại sao, vì lẽ gì, Đức Phật Mẫu là MẸ mà phải chịu dưới quyền con là Đức Di-Lạc, trong bụng coi hơi bất mãn.

Liền khi ấy, Bần đạo ngó thấy cái tướng hình của Đức Phật Mẫu đứng đằng trước, còn Đức Di-Lạc ở đằng sau lưng, quì xuống, đưa hai bàn tay lên, đặng tỏ cho Bần đạo hiểu, dầu cho người con ấy mạnh mẽ, quyền hành thế nào, mà quyền MẸ vẫn là quyền MẸ, không thế gì qua được. Ngài chỉ tuân theo mạng lịnh của Đức Phật Mẫu đặng trị thế mà thôi."

Cũng trong Con đường TLHS, Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo, thuật lại lúc Ngài vào Diêu Trì Cung bái kiến Đức Phật Mẫu, thấy cái huyền năng vô biên của Đức Phật Mẫu:

Bần đạo cùng các bạn kỳ trước đã ghé nơi Tạo Hóa Thiên, tức Tòa Thiên Cung Phật Mẫu là Diêu Trì Cung.

Bần đạo có nói một điều làm cho chúng ta nên suy nghĩ nhiều là: Huyền bí vô biên của Phật Mẫu.

"Bần đạo nói sơ lược huyền năng thế nào, mà khi chúng ta vào kiến diện Đức Phật Mẫu, ta ngó trên mặt Ngài, ta thấy mặt bà mẹ ta, sanh ta, đương như buổi sống, đương lo buổi trở về. Bần đạo tưởng ngó thấy bà mẹ sanh Bần đạo, tưởng cả thảy cũng đều ngó thấy người mẹ của họ vậy.

Nếu lấy theo cái trí học tưởng tượng không biết con mắt thiêng liêng có chiếu hình mẹ ta chiếu diệu ra không? hay là Huyền diệu vô biên của Phật Mẫu cho chúng ta thấy như vậy.

Bà mẹ hình hài chúng ta đây là nhơn viên của Đức Phật Mẫu bên phái nữ đó....

Có điều trọng hệ là dầu nam nữ cũng vậy, ráng giữ một điều nầy: Coi chừng đừng thất hiếu với cha mẹ. Ngày mình ngó thấy hình ảnh Đức Phật Mẫu thì thấy người Mẹ nhơn từ, hiền hậu vô cùng, hạnh phúc mình được hưởng đó, còn trái ngược lụng lại, nếu ta thất hiếu, ta dòm vào hình ảnh của Phật Mẫu, ta thấy nét mặt nghiêm nghị và lãnh đạm, chúng ta sẽ hết sức đau khổ đó."

Việc thờ phượng Đức Phật Mẫu hiện nay tạm đặt tại Báo Ân Từ trong Nội Ô Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Báo Ân Từ, Đức Phạm Hộ Pháp dạy đắp tượng thờ Đức Phật Mẫu theo sự tích Hớn rước Diêu Trì, tức là vua Hớn Võ Đế cầu Đức Phật Mẫu giáng xuống Hoa Điện:

Sự tích: Hớn rước Diêu Trì:

Vua Hớn Võ Đế hay Hán Vũ Đế (141-87 trước Tây lịch) là vị vua thứ 5 của nhà Hớn (Hán) bên Tàu, có hùng tài đại lược, nhưng cũng rất tín ngưỡng Trời Phật.

Khi Hớn Võ Đế mới lên ngôi, Ngài có phát nguyện lập một cảnh chùa thật tráng lệ gọi là HOA ĐIỆN để sùng bái Trời Phật. Gọi là Hoa Điện, vì chùa nầy được chạm khắc hình các thứ hoa trên các vật liệu xây dựng, nên mới trông vào thấy như là một Cung Điện toàn bằng hoa.

Ngôi chùa lớn lao cực kỳ xinh đẹp như thế, nhưng nhà vua chưa quyết định thờ Đấng nào, chỉ để trống, chủ tâm là chờ đợi đến chừng nào nhà vua thấy được sự huyền diệu hiện tượng ra thì nhà vua mới sùng bái.

Đến năm Hớn Võ Đế được 61 tuổi, nhà vua tổ chức một Lễ Khánh thọ Đáo tuế long trọng, Ngài có sở vọng cầu khẩn thế nào cho có Đức Phật Mẫu giáng xuống chứng lễ, nên nhà vua lập bàn hương án trước sân chùa cầu khẩn ngày đêm, mà không biết Đức Phật Mẫu ngự ở nơi nào và có thấu biết chăng?

Lúc bấy giờ có Ông Đông Phương Sóc, tu đắc đạo thành Tiên, mà trước kia Ông có làm quan trong triều đình của Hớn Võ Đế, sau về núi tu luyện, đang ngồi tịnh, chợt động tâm, liền đoán biết hiểu rõ mọi việc của Võ Đế nơi triều đình. Ông liền xuống núi, đi đến kinh đô, vào triều đình yết kiến Võ Đế.

Vua Hớn Võ Đế gặp Đông Phương Sóc thì rất mừng rỡ, thuật hết mọi việc cho Đông Phương Sóc nghe và nói rõ ước vọng của nhà vua nhân cuộc Lễ Khánh thọ Đáo tuế là sở cầu Đức Phật Mẫu đến chứng lễ, mà không biết Đức Phật Mẫu ở nơi nào, và nhờ ai đi thỉnh, may mắn có Đông Phương Sóc tới, vậy nhờ khanh giúp trẫm đi thỉnh Đức Phật Mẫu được chăng?

Ông Đông Phương Sóc tâu rằng:

- Bệ Hạ đã định thì hạ thần phục mạng, dầu khổ nhọc thế nào, hạ thần cũng đến Diêu Trì Cung thỉnh Đức Phật Mẫu, nhưng kết quả được cùng chăng là do lòng thành cầu nguyện của Bệ Hạ. Vậy xin Bệ Hạ ban chiếu cho Thần đi thỉnh.

Đoạn Đông Phương Sóc lãnh chiếu chỉ ra đi.

Ông dùng huyền diệu Tiên gia, chỉ trong chốc lát, Đông Phương Sóc đã đến được Diêu Trì Cung nơi cõi Tạo Hóa Thiên.

Đông Phương Sóc xin vào yết kiến Đức Phật Mẫu và tâu bày hết các việc của vua Hớn Võ Đế khẩn cầu.

Đức Phật Mẫu cảm động và phán:

- Phật Mẫu sẽ giáng phàm vào đêm Trung Thu chứng lễ Khánh thọ của Hớn Võ Đế theo sự khẩn cầu, sẽ đem theo 4 Tiên đồng nữ nhạc đờn ngâm bài chúc thọ, và tặng 4 quả Đào Tiên . Khi Phật Mẫu đến có Thanh loan báo tin trước.

Phương Sóc rất vui mừng, bái tạ Đức Phật Mẫu, rồi cấp tốc trở lại trần gian, tâu bày các việc cho vua Võ Đế biết.

Nhà vua rất vui mừng và hỏi:

- Thanh loan là gì?

Đông Phương Sóc đáp:

- Thanh loan là con chim loan màu xanh, đó là con chim lịnh của Đức Phật Mẫu, dùng để chở Đức Phật Mẫu du hành khắp nơi.

Xin Bệ Hạ chỉnh trang cho long trọng, trang nghiêm, tinh khiết để nghinh tiếp Đức Phật Mẫu, phải lập bàn hương án bên trong và bên ngoài, xông hương khử trược.

Đêm rằm Trung Thu năm đó, trăng sáng vằng vặc, đầu giờ Tý, Hớn Võ Đế quì trước Hoa Điện, thành tâm cầu khẩn.

Xảy thấy một con chim Thanh loan đáp xuống sân Hoa Điện. Liền khi đó, Đức Phật Mẫu cùng Cửu vị Tiên Nương và bốn Tiên đồng nữ nhạc giáng lâm trước Hoa Điện.

Hớn Võ Đế cung nghinh Đức Phật Mẫu vào ngự nơi Chánh điện của Hoa Điện.

Đức Phật Mẫu dạy bốn Tiên đồng nữ nhạc trao tặng cho Hớn Võ Đế 4 quả Đào Tiên và ca ngâm bài chúc thọ. Ông Đông Phương Sóc quì, hai tay nâng cái dĩa lên để rước lộc (rước 4 quả Đào Tiên).

Bốn vị Tiên đồng nữ nhạc ấy có tên là: Hứa Phi Yến, An Phát Trinh, Đổng Song Thành và Vương Tử Phá.

Sau khi chứng lễ Đáo tuế của Vua Hớn Võ Đế xong, Đức Phật Mẫu cùng Cửu vị Tiên Nương và 4 Tiên đồng nữ nhạc cỡi chim Thanh loan trở về DTC nơi cõi Thiêng liêng.

Vua Hớn Võ Đế ghi nhớ hình ảnh của Đức Phật Mẫu và Chín vị Nữ Tiên, cho thợ khéo, tạc hình Đức Phật Mẫu và Chín vị Nữ Tiên nơi Hoa Điện để ghi nhớ sự tích và phụng thờ Đức Phật Mẫu.

Sự tích nầy được truyền tụng đến ngày nay.

Do đó, nơi thờ Đức Phật Mẫu được gọi là ĐIỆN chớ không gọi là ĐỀN.

Do theo sự tích nầy, Đức Hộ Pháp dạy đắp tượng thờ Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương nơi Báo Ân Từ như sau:

1. Trên hết là chơn dung Đức Phật Mẫu (ĐPM) cỡi thanh loan, tức là con chim loan màu xanh.2. Kế đắp 9 pho tượng của Cửu vị Tiên Nương.3. Đắp thêm 4 pho tượng của 4 Nữ nhạc theo hầu ĐPM.4. Pho tượng ông Đông Phương Sóc quì bưng bằng hai tay một cái dĩa nâng lên khỏi đầu, trên dĩa có 4 quả đào Tiên do ĐPM ban tặng. Ông Đông Phương Sóc quì bên hữu ĐPM.5. Pho tượng Đức Cao Thượng Phẩm quì trước sân Hoa Điện.

Trong khuôn tượng, đắp lên một cảnh chùa cổ tự, kiểu xưa gọi là Hoa Điện.

Đáng lẽ tạo hình Hớn Võ Đế, nhưng vì đời Hớn Võ Đế đến nay quá xa thẳm, lại nữa, nguyên căn của Hớn Võ Đế là chơn linh Hớn Chung Ly trong Bát Tiên giáng phàm. Nay là thời Hạ nguơn Tam Chuyển, bước qua Thượng nguơn Tứ Chuyển, Bát Tiên lãnh lịnh giáng phàm làm tướng soái cho Đức Chí Tôn mở Đạo, Đức Cao Thượng Phẩm chính là chơn linh Hớn Chung Ly giáng phàm kỳ nầy, nên tạo hình Đức Cao Thượng Phẩm thay vào chỗ Hớn Võ Đế thì thuận hơn."

DIÊU TRÌ CUNG CỦA PHẬT MẪU

**************************Diêu Trì Cung:

Diêu: Ngọc Diêu hay ngọc Dao, là loại ngọc rất quí ở cõi thiêng liêng.Trì: cái ao.Cung: cung điện.

Diêu trì hay Dao trì là cái ao làm bằng ngọc diêu nơi cõi thiêng liêng, ở từng Trời thứ 9 Tạo Hóa Thiên.

Diêu Trì Cung là cung điện bên cạnh ao Diêu Trì, là nơi thường ngự của Đức Phật Mẫu.

Bát Nương giáng cơ đêm 10-1-Nhâm Thìn (1952) giảng về Diêu Trì Cung như sau:

"Chị chào mấy em. Đêm nay Chị đến đặng chỉ cho mấy em rõ Diêu Trì Cung là nơi nào?

Nơi ao Diêu Trì có một đài phát hiện Âm quang, đài ấy thâu lằn Sanh quang của ngôi Thái Cực rồi đem Dương quang hiệp với Âm quang mà tạo nên chơn thần cho vạn linh trong CKVT.

Phật Mẫu là Đấng nắm Cơ Sanh hóa, thay quyền Chí Tôn, đứng ra thâu cả Thập Thiên can đem hiệp với Thập nhị Địa chi mà tạo nên vạn vật. Nơi Cung Diêu Trì là nơi tạo nên chơn thần và thể xác đó vậy.

Diêu Trì Cung là cung điện bằng ngọc diêu ở bên Ao Thất bửu, chớ chẳng chi lạ. Ngọc tượng trưng cho sự quí giá, còn Diêu là chất hơi kết tụ mà thành.

Dưới quyền của Phật Mẫu có Cửu Tiên Nương trông nom về cơ Giáo hóa cho vạn linh, còn ngoài ra có hằng hà sa số Phật trông nom về cơ Phổ độ mà Quan Âm Bồ Tát là Đấng cầm đầu.

Quan Âm Bồ Tát ngự tại cung Nam Hải, ở An Nhàn động, còn Diêu Trì Cung thì ở tại Tạo Hóa Thiên.

Nơi Cung Diêu Trì còn có một cõi Âm Quang riêng biệt gọi là Phong Đô đặng giáo hóa các chơn hồn đã bị lạc nẻo trên đường trần.

Traloitructuyen.com cũng giúp giải đáp những vấn đề sau đây:

  • Sự tích Mẹ Địa Mẫu
  • Mẹ Địa Mẫu là ai
  • Kinh Địa Mẫu
  • Tượng mẹ Địa Mẫu
  • Cách thờ Mẹ Địa Mẫu
  • Hình ảnh Mẹ Địa Mẫu
  • Cách thờ Mẹ Diêu Trì
  • Kinh Mẹ Địa Mẫu
 
 
 
 
 
 
 
 
See more articles in the category: Là ai

Leave a Reply