TIỂU LUẬN bảo tồn tài NGUYÊN và bảo vệ môi TRƯỜNG BIỂN |Traloitructuyen.com

Or you want a quick look: MỤC LỤC

Traloitructuyen.com cũng giúp giải đáp những vấn đề sau đây:

  • Luận văn về ô nhiễm môi trường biển
  • Tiểu luận ô nhiễm môi trường biển
  • Tiểu luận về ô nhiễm môi trường pdf
  • Tiểu luận bảo vệ môi trường biển
  • Số liệu thống kê về ô nhiễm môi trường biển
  • Tiểu luận hậu quả của ô nhiễm môi trường
  • Hậu quả của ô nhiễm môi trường biển
  • Tiểu luận thực trạng ô nhiễm môi trường ở Hà Nội
TIỂU LUẬN bảo tồn tài NGUYÊN và bảo vệ môi TRƯỜNG BIỂN

TIỂU LUẬN bảo tồn tài NGUYÊN và bảo vệ môi TRƯỜNG BIỂN

MỤC LỤC


Phần I: Vai trò……………………………………………………………………
Phần II: Tình hình sử dụng ……………………………………………………...
Phần III: Nguyên nhân gây ô nhiễm…………………………………………….

Phần IV: Hậu quả………………………………………………………………..
Phần V: Biện pháp khắc phục……………………………………………………

Biển và đại Dương chiếm 71%diện tích trên hành tinh với độ sâu trung bình là 3710 m, tổng khối nứơc là 1,37tỉ km3.Gồm 4 Đại Dương lớn và hàng chục nghìn đảo ,quần đảo lớn nhỏ.. Biển Việt Nam chúng ta với chiều dài khoảng 3260 km, gần 3000 đảo lớn nhỏ,nằm rải rác , vùng biển rộng gấp vài lần diện tích đất liền

Phần 1: VAI TRÒ


1. Là nguồn gen ,nguồn thực phẩm quý giá cho con người.Nhiều loài được coi là hoá thạch sống:ốc anh vũ, thú mỏ vịt..
2. Là điểm du lịch, nghỉ mát lí tưởng cho du khách quốc tế cũng như trong nước
3.Là con đường lưu thông hàng hoá trên biển
4. Là nguồn cung cấp nguyên liệu cho ngành chế biến thuỷ sản
5. Biển cung cấp nhiên liệu, khí đốt cho nhiều ngành công nghiệp
6. Là kho muối, khổng lồ, với nồng độ muối biển khá cao 35 %
7. Vùng gần bờ là nơi nuôi trồng thuỷ sản
8. Là kho cát lớn với chất lượng cao ,cung cấp vật liệu cho nhiều ngành: xây dựng, công nghiệp sản xuất thuỷ tinh, pha lê..

Phần 2: THỰC TRẠNG


Nước là tài nguyên đặc biệt quan trọng, là thành phần thiết yếu của sự sống và môi trường. Nước không thể thiếu cho sự tồn tại và phát triển của thế giới sinh vật và nhân lợi trên trái đất. Nước quyết định sự tồn tại, phát triển bền vững của đất nước; mặt khác nước cũng có thể gây ra tai họa cho con người và môi trường. Tài nguyên nước là nguồn tài nguyên vừa hữu hạn, vừa vô hạn.

Hiện nay, ngành Hàng hải Việt Nam có khoảng 46 nhà máy đóng tàu, 49 cảng biển, hơn 166 bến cảng, 90 đèn biển, 37 luồng hàng hải, 29 đài thông tin duyên hải, 2 đài thông tin vệ tinh, và khoảng 1673 tàu biển đang hoạt động. Trong đó, các nhà máy đóng tàu, cơ sở sửa chữa dịch vụ về tàu biển, hoạt động các bến cảng và khối lượng lớn tàu biển đang hoạt động được xác định là nguồn gây ô nhiễm môi trường chủ yếu.

Chất thải từ hoạt động ngành Hàng hải chủ yếu là các loại nước thải như nước
ballast, nước thải la canh hầm hàng, nước thải sinh hoạt. Theo số liệu cung cấp của Cục
Hàng hải, lượng nước dằn phải xả thải từ các tàu ra vào khu vực các Cảng Hải Phòng,
Quảng Ninh khoảng +84888672676 m3/tháng đến +84888672676 m3/tháng.

Trong loại nước thải này
thì chất thải lỏng có lẫn dầu tiếp nhận từ hệ thống la canh buồng máy, nước vệ sinh hầm
hàng của tàu dầu, nước vệ sinh két dầu nhiên liệu, dầu thải, cặn dầu thải, dầu rò rỉ, nước từ
két dằn lẫn dầu, nước la canh hầm hàng có lẫn dầu là loại nước thải thường có hàm lượng
dầu cao do vậy cần phải tiếp nhận, thu gom, phân loại và xử lý theo các quy định về quản
lý chất thải nguy hại của Thông tư số 12/2011/TT-BTNMT ngày 14/4/2011 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường quy định về Quản lý chất thải nguy hại, Thông tư số 50/2012/TTBGTVT ngày 19/12/2012 của Bộ GTVT và các quy định Công ước quốc tế.
Hầu hết các cảng biển Việt Nam hiện nay đều chưa có trạm tiếp nhận và xử lý chất thải
dầu từ tàu trong khi các tàu biển đã được trang bị máy phân ly dầu nước, các két chứa dầu
cặn và mặt bích quốc tế để bơm chuyển chất thải lên trạm xử lý trên bờ, việc đó cũng rất
phù hợp theo yêu cầu của công ước quốc tế. Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
hàng hải gồm: Các cơ sở đóng, sửa chữa tàu biển đều chưa có trang bị hệ thống kiểm soát
và xử lý chất thải.
Theo báo cáo môi trường năm 2013 của Cục Hàng hải Việt Nam về hiện trạng thu
gom dầu thải la canh, trong tổng số 10 cảng biển quốc tế chỉ có một cảng có phương tiện
xử lý nước thải có dầu, ba cảng có đơn vị thu gom chất thải.
Dầu trong chất thải gây ô nhiễm môi trường biển, ảnh hưởng nghiêm trọng đến các
hệ sinh thái. Đặc biệt là hệ sinh thái rừng ngập mặn, cỏ biển, vùng triều bãi cát, đầm phá và

các rạn san hô.

Ô nhiễm dầu làm giảm khả năng chống đỡ, tính linh hoạt và khả năng khôi
phục của các hệ sinh thái. Hàm lượng dầu trong nước tăng cao, các màng dầu làm giảm
khả năng trao đổi oxy giữa không khí và nước, làm giảm oxy trong nước, làm cán cân điều
hòa oxy trong hệ sinh thái bị đảo lộn.
Ngoài ra, dầu còn chứa độc tố làm tổn thương hệ sinh thái, có thể gây suy vong hệ
sinh thái. Bởi dầu chứa nhiều thành phần khác nhau, làm biến đổi, phá hủy cấu trúc tế bào

sinh vật, có khi gây chết cả quần thể. Dầu thấm vào cát, bùn ở ven biển có thể ảnh hưởng
trong một thời gian rất dài. Đã có nhiều trường hợp các loài sinh vật chết hàng loạt do tác
động của sự cố tràn dầu.
Mặt khác tình trạng ô nhiễm biển do dầu đang có xu hướng gia tăng, phức tạp hơn.
Số lượng tàu thuyền gắn máy loại nhỏ, công suất thấp, cũ, lạc hậu của đội ngũ tàu thuyền
ngư dân đánh bắt hải sản tăng nhanh, nên khả năng thải dầu vào môi trường biển nhiều
hơn. Thực tế cho thấy, các tàu nhỏ chạy bằng xăng dầu của ngư dân đánh bắt hải sản luôn
là nguồn thải chính, đã thải ra chiếm khoảng 70% lượng dầu thải trên biển. Kết quả khảo
sát chất lượng nước ở một số khu vực cảng hiện nay, đặc biệt là đối với các cảng neo đậu
hàng nghìn tàu đánh bắt của ngư dân thì môi trường nước đang bị ô nhiễm dẫn đến sự chết
dần của các sinh vật biển và trữ lượng hải sản cũng giảm dần.

Phần III: NGUYÊN NHÂN GÂY Ô NHIỄM


1. Tràn dầu trên biển:

- Biển là một trong những địa điểm thăm dò và khai thác dầu khí nhộn nhịp nhất.. Các hoạt động thông thường kèm theo việc khai thác và vận chuyển dầu gây ra tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng do ầu.

- Các vụ rò rỉ và tràn dầu đã được cục môi trường thống kê bằng dữ liệu kể từ năm 1989. Vụ nghiêm trọng nhất xảy ra vào đầu tháng 4 năm 1994: làm tràn ra1700 tấn dầu gasoil ảnh hưởng đến vùng cảng và 30000 ha ruộng lúa, trại cá và
trại vịt.
- Các vụ tràn dầu xảy ra vì nhiều nguyên nhân:

+ Gia tăng mật độ đi lại, thiếu sự kiểm soát giao thông và các biện pháp an toàn
không
+ Do phù vệ hợp sinh trên tàu một chở dầu số tàu bằng chở nước dầu. biển

+ Do quá trình khai thác và chế biến dầu tại các dàn khoan và cơ sở ven biển.

2. Kim oại nặng trong nước.

Hiện nay, các ngành công nghiệp đều xả trực tiếp chất thải chưa được xử lí, kim loại nặng và độc tố vào môi trường

3. Đổ và xả chất thải xuống sông

- Chất thải không được xử lí đang được đổ xuống sông của Việt Nam.

Kim loại và nhiều thuốc trừ sâu (DDT) tích luỹ sinh học trong cá và cácdộng vật khác. Tình trạng này có hại cho sức khoẻ các động vật biển và cóthể gây tử vong. Con người sử dụng chúng làm thức ăn sẽ chịu ảnh hưởngcủa sự tích luỹ sinh học này và có nguy cơ gặp rủi ro nguy hại đến sứckhoẻ.

- Nước cống rãnh không được xử lí và các chất ô nhiễm từ công nghiệpvà nông nghiệp đang đổ vào sông của Việt Nam . Các con sông này đổ rabiển, là ô nhiễm môi trường biển và đới bờ.

4. Nước thải đô thị

- Nước thải đô thị thải xuống cống hoặc rãnh, ao, hồ, sông, suối, biển…
- Các bể phốt có chất lượng kém, không được tu sửa thường xuyên ? nước thải chưa được xử lí thải ra môi trường trong các đợt mưa bão.

- Hệ thống thoát nước khi có bão không đủ và không phù hợp ? nước tràn trong các cơn bão cùng nước cống và rác rưởi lan rộng đe doạ sức khoẻ của nhân dân

5. Tác động của các nghành thủy sản

- Nuôi trồng thuỷ sản là một hướng phát triển mạnh mang tính đột pha của ngành thuỷ sản vì vậy rất nhiều diện tích rừng ngập mặn, đất trồng lúa đã vàđang chuyển đổi sang đầm nuôi tôm, cùng với các chất thải từ ao nuôi đã trở thành nguy cơ gây ô nhiễm hữu cơ nghiêm trọng cho các vùng ven biển.
- Nước ta, chất thải từ nuôi tôm là vấn đề lớn cần được quan tâm. Việc xả nước thải chưa qua xử lý còn tuỳ tiện, đa số được thải trực tiếp ra bên ngoài. Nếu ởquy mô nhỏ thì trong một vài năm đầu có thể chưa gây ra ảnh hưởng đáng kể.

Nhưng nếu diện tích nuôi lớn, tập trung và việc phát thải diễn ra trong thời giandài thì sẽ gây ô nhiễm môi trường biển ven bờ, gây phú dưỡng, ảnh hưởng đếnquá trình sinh trưởng và phát triển của nguồn lợi hải sản tự nhiên

READ  Tiểu luận lý thuyết dịch Ngôn ngữ Anh HOU

6.Công nghiệp phá dỡ tàu:

- Cơ sở hạ tầng của các doanh nghiệp phá dỡ tàu cũ thô sơ lạc hậu, không quan tâm đến đầu tư công nghệ xử lí, khắc phục hậu quả ô nhiễm môi trường.(phá dỡ một con tàu đem lại +84888672676% nguồn thép nhưng "đẻ" ra cả một núi chất độc có hại chiếm 15 _ 20% trọng lượng tàu gồm: nước bẩn ở đáy tàu, dầu và nghiên liệu gây ra do sự cố tràn dầu, đặc biệt là sơn và lớp sơn bảo vệ thân tàu, các mảnh kim loại,.)

- Các tàu đóng từ năm 70 khi phá dỡ sẽ có nhiều chất độc hại : PBC, thuỷ ngân, thạch tín, kim loại nặng.

7. Cac nguyen nhan khac

Quá trình đô thị hoá đã tác động đến vùng ven bờ và vùng biển. Các hoạt động khai thác nuôi trồng thuỷ sản, các hoạt động qua lại của các loại tàu ra vào cảng cũng tác động mạnh mẽ tới môi trường biển. Hoạt động của các doanh nghiệp công nghiệp cũng tạo nên những bất cập cho môi trường ven biển. Du lịch phát triển số du khách ngày càng tăng cao cũng là tác nhân đối với môitrường biển.

- Biển bị nhiễm bẩn do các luồng tàu đi và tại các cảng, nên ô nhiễm Hydrocacbon là khá cao.

- Ô nhiễm không khí có tác động mạnh mẽ đến môi trường biển. Nồng độ CO2 trong không khí cao làm cho lượng CO2 hoà tan trong nước biển tăng. Nhiều bụi
và kim loại nặng được không khí mang ra biển. Hiệu ứng nhà kính kéo theo sự dâng cao mực nước biển và thay đổi môi trường sinh thái biển
- Phá huỷ nơi cư trú: Phá rừng ngập mặn bừa bãi để nuôi tôm với tốc độ 2,3%năm, phá huỷ các rạn san hô, các thảm cỏ biển, các vùng triều lầy...
- Khai thác quá mức và không hợp lý: việc buôn bán các hàng mỹ nghệ từ hảisản, phát triển ở các trung tâm du lịch là nguyên nhân dẫn đến làm cạn kiệt một số loài san hô cảnh, trai ốc, tôm hùm và đồi mồi. Và buôn bán cá cảnh biển phát triển mạnh kéo theo việc đánh bắt quá mức cá trên các rạn san hô
- Ngoài các nguồn ô nhiễm nhân tạo, biển còn bị ô nhiễm bởi các quá trình tự
nhiên như núi lửa phun, bão lụt, sự cố rò rỉ dầu tự nhiên.

- Ô nhiễm môi trường biển đã và đang là vấn đề bức xúc. Thêm vào đó, các thiên tai như bão lũ, xâm nhập mặn có tác động lớn đến môi trường biển và đới bờ. Các hoạt động của thiên tai có thể trầm xúc, nó đã dẫn tới những hậu quả cho môi trường biển

Phần IV Hậu quả đối với nước ta

HẬU QUẢ:

- Gia tăng nồng độ của các chất ô nhiễm trong nước biển như dầu, kim loại nặng, các hoá chất độc hại

- Gia tăng nồng độ các chất ô nhiễm tích tụ trong trầm tích biển vùng ven bờ
- Suy thoái hệ sinh thái biển như hệ sinh thái san hô, hệ sinh thái rừng ngập mặn, cỏ

Cạn kiệt nguồn tôm giống biển,.và các đàn cá gần bờ.

Kết quả làm cho nhiều loài sinh vật biển bị tuyệt chủng hoặc có nguy cơ bị tuyệt chủng.

- Suy giảm trữ lượng các loài sinh vật tính đa dạng sinh vật biển.

- Xuất hiện các hiện tượng thuỷ triều đỏ, tích tụ chất ô nhiễm trong thực phẩm lấy từ

- Gây biển hiện tượng triều đỏ

- Xói lở đất ven biển như:
+ Nam Định hiện có hơn 25 km đê bao đang bị đe dọa do xói lở.
+ Các đụn cát ở phá Tam Giang và Quảng Nam, Quảng Bình cũng đang mất đi,
làm thay đổi địa mạo của vùng ven biển.

Phần V: BIỆN PHÁP BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG BIỂN

Trong những năm qua, để giải quyết các vấn đề phát sinh liên quan đến biển tại mỗi nước nhằm hướng tới việc khai thác hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi trường để phát triển bền vững biển, xu hướng chung cho thấy các quốc gia trên thế giới cũng có nhiều nỗ lực, không ngừng xây dựng, triển khai nhiều chính sách, biện pháp, chương trình và kế họach nhằm để khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, phát triển bền vững đất nước và đến nay, nhiều quốc gia đã đạt được những tiến bộ và thành công đáng ghi nhận. Điểm qua các biện pháp và sáng kiến nhằm khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường biển của một số quốc gia có biển, chúng ta có thể thấy rằng xu hứơng chung của các nước tập trung vào một số nội dung chính sau:

Tăng cường xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp lý để khai thác hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, thúc đẩy phát triển bền vững biển:

Tại Trung Quốc, cùng với việc ban hành Luật bảo vệ môi trường biển, đến nay Trung Quốc đã ban hành nhiều văn bản pháp qui khác nhau nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế biển đi đôi với việc bảo vệ môi trường, khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên biển, ví dụ như Luật về thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế Trung quốc, Qui định quản lý sử dụng và bảo vệ đảo không có cư dân…Tương tự Trung Quốc, nhiều quốc gia khác đã xây dựng, hoàn thiện hệ thống, công cụ pháp lý về khai thác hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, thúc đẩy phát triển bền vững biển ví dụ như Mĩ thông qua Luật biển vào năm 2000, Canada đã xây dựng và ban hành Luật biển từ năm 1997, Úc với Luật bảo tồn đa dạng sinh học và bảo vệ môi trường trong đó áp dụng toàn diện đối với biển. Việc xây dựng và ban hành các bộ Luật, văn bản qui phạm pháp luật về biển đã tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc đảm bảo cho việc thực hiện thành công công tác quản lý tổng hợp, khai thác hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường biển ở nhiều quốc gia có biển.

Hoàn thiện khung thể chế quản lý biển:

Cùng với việc hoàn thiện pháp luật về biển, hệ thống quản lý môi trường biển mới cũng được được xây dựng và phát triển tại nhiều quốc gia nhằm đảm bảo tính thống nhất xuyên suốt, cắt giảm chi phí hành chính, thúc đẩy công tác trao đổi thông tin và dữ liệu, đạt được hiệu quả cao trong công tác qui họach phát triển bền vững biển... Tại Nhật Bản, sau khi ban hành Luật cơ bản về Biển năm 2007, Nhật đã thành lập một cơ quan đầu mối về chính sách biển tổng hợp do Thủ tướng đứng đầu nhằm thúc đẩy biện pháp về biển một cách tập trung và tổng hợp; hoặc tại Úc, sau khi ban hành chính sách biển quốc gia, Úc đã đưa ra một loạt những điều chỉnh cơ cấu tổ chức bao gồm việc thành lập một Ủy ban bộ trưởng biển quốc gia cùng với nhóm cố vấn biển quốc gia, văn phòng biển quốc gia và một ban chỉ đạo qui họach biển, trong đó chức năng của Ủy ban bộ trưởng biển quốc gia tập trung vào việc điều phối chính sách biển, giám sát quá trình kế hoạch phân vùng biển, xây dựng các chương trình, kế họach thực thi chính sách biển quốc gia, đề xuất ưu tiên nghiên cứu biển liên quan đến phát triển và thực thi chính sách biển Úc.

Khắc phục tình trạng ô nhiễm và suy thoái môi trường nghiêm trọng và tăng cường kiểm soát, ngăn ngừa các nguồn ô nhiễm biển:

Để giải quyết vấn đề ô nhiễm biển có nguồn gốc từ biển và từ đất liền, nhiều chương trình hành động nhằm khắc phục tình trạng ô nhiễm và suy thoái môi trường nghiêm trọng với các điểm, khu vực, vùng bị ô nhiễm và suy thoái nặng đã được triển khai; việc ứng phó, khắc phục sự cố môi trường, thiên tai trên biển và vùng ven biển, bảo vệ và cải thiện môi trường các khu vực trọng điểm tại các vùng biển cũng tích cực được tiến hành; công tác phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm đối với các hoạt động du lịch, hàng hải; khoan, thăm dò, khai thác, vận chuyển dầu khí; khai thác khoáng sản; đánh bắt, nuôi trồng thuỷ sản; thải đổ bùn nạo vét luồng giao thông thủy, công trình biển…cũng được ưu tiên chú trọng ở nhiều nước.

Thúc đẩy tăng cường quản lý tổng hợp đới bờ (ICM):

Kể từ khi ra đời đến nay, quản lý tổng hợp đới bờ đã được thừa nhận như là khung quản lý hiệu quả để đạt được phát triển bền vững vùng biển và đới bờ và được triển khai, áp dụng cho nhiều vùng bờ khác nhau trên thế giới với nhiều vấn đề khác nhau. Tại Mĩ, Luật Quản lý đới bờ được thông qua năm 1972 đưa Mĩ trở thành quốc gia tiên phong trong việc áp dụng quản lý tổng hợp biển và đới bờ. Luật Quản lý đới bờ ra đời đã giúp thúc đẩy, tăng cường sự tham gia và phối hợp của các bên liên quan trong việc đưa ra các chương trình liên quan đến vùng ven biển và cân bằng giữa các nhóm cạnh tranh về lợi ích ở vùng ven biển. Tại Nhật Bản, quản lý tổng hợp đới bờ cũng được áp dụng rộng rãi nhằm duy trì tính nguyên vẹn của hệ sinh thái vùng bờ thông qua công tác bảo tồn và bảo vệ, khuyến khích sử dụng bền vững các tài nguyên biển và ven bờ đặc biệt liên quan đến các họat động đánh bắt, khai thác nguồn lợi tài nguyên sinh vật biển chủ yếu, ngăn chặn những thiệt hại lớn về vật chất do triều cường, sóng to, gió lớn, lũ lụt, động đất, sóng thần và xói lở bờ biển. Tại một số quốc gia khác, đến nay, nhiều chương trình lớn về quản lý đới bờ được xây dựng và triển khai để giải quyết vấn đề ô nhiễm biển, đồng thời giải quyết các vấn đề liên quan khác nhau như đánh bắt cá, nuôi trồng thủy sản, du lịch, đa dạng sinh học và mực nước biển dâng cao như: Chương trình quản lý tài nguyên biển châu Mỹ La Tinh và vùng Caribê, Chương trình quản lý đới bờ các vùng Victoria (Úc), Cape Town (Nam Phi), Batangas và Bataan (Philippines), Bali (Indonesia)...

Quản lý dựa vào hệ sinh thái:

Quản lý dựa vào hệ sinh thái là một cách tiếp cận quản lý thống nhất chú trọng xem xét toàn bộ hệ sinh thái, các mối liên hệ xuyên suốt trong toàn hệ thống và các ảnh hưởng, tác động tích tụ do các họat động của con người tạo ra. Thực tế, ngay từ rất sớm trong quá trình hình thành và phát triển của khái niệm này, quản lý dựa vào hệ sinh thái đã được áp dụng vào rất nhiều lĩnh vực phục vụ các mục đích khác nhau. Trong bối cảnh nhu cầu quản lý và phát triển bền vững môi trường biển ngày càng trở nên cấp thiết, cách tiếp cận quản lý sinh thái được xem là nguyên tắc cơ bản của chính sách biển quốc gia các nước như Úc, Mĩ, Canada… và được áp dụng triển khai thành công trong thực tiễn trong quản lý biển tại khu bảo tồn tồn Great Barrier Reef Marine Park của Úc, vùng biển Bering của Mĩ…
Quy hoạch và phân vùng không gian biển và đới bờ:

Quản lý biển trên cơ sở quy họach, phân vùng không gian biển và đới bờ hiện là xu thế quản lý biển hiện đại được triển khai ở nhiều quốc gia. Tại Mĩ, việc xây dựng qui họach, phân vùng không gian biển và đới bờ chính là một trong những ưu tiên cần triển khai trong chính sách biển dưới thời Tổng thống Obama, Nhóm đặc nhiệm về Chính sách biển của Tồng thống đã đề xuất một khung qui họach, phân vùng không gian biển và đới bờ quốc gia nhằm tạo ra một cách tiếp cận mới, tổng hợp, toàn diện, theo khu vực nhằm để:

READ  Tiểu luận: Lựa chọn địa điểm đầu tư khách sạn / Resort 4-5 sao

- Hỗ trợ sử dụng bền vững, an toàn, hiệu quả biển, đại dương và các hồ lớn.

- Bảo vệ, duy trì và khôi phục biển, đới bờ đảm bảo các hệ sinh thái có khả năng phục hồi cao, và cung cấp bền vững các dịch vụ hệ sinh thái.

- Đảm bảo, duy trì khả năng tiếp cận biển, đới bờ của công chúng.

- Thúc đẩy sự hỗ trợ trong sử dụng, giảm thiểu xung đột và tác động môi trường. Tăng cường tính nhất quán, thống nhất trong quá trình ra quyết định, giảm thiểu các xung đột lợi ích, giảm chi phí, sự trì hoãn kéo dài, nâng cao hiệu quả qui hoạch...

- Nâng cao tính chắc chắn và khả năng dự báo trong qui họach để đầu tư khai thác, sử dụng biển, đới bờ.

- Tăng cường sự phối hợp, liên lạc liên bộ, ngành, các bên liên quan trong nước và quốc tế trong quá trình lập qui hoạch, xây dựng kế hoạch.

Xây dựng các khu bảo tồn biển:

Khu bảo tồn biển được xây dựng nhằm để bảo vệ và giữ gìn tính đa dạng sinh học, tài nguyên thiên nhiên và các giá trị văn hóa. Theo số liệu thống kê, số lượng khu bảo tồn biển ngày càng tăng trên quy mô toàn cầu. Tính đến năm 1970, thế giới mới có 118 khu bảo tồn ở 27 nước, đến năm 1985 đã có 470 khu ở 69 nước và 298 khu được đề nghị. Mười năm sau, thế giới đã thống kê được 1306 khu bảo tồn và tính đến nay tổng cộng các khu bảo tồn biển được xây dựng trên toàn thế giới đã có khoảng hơn 5000 khu bảo tồn biển, chiếm 8% diện tích đại dương.
Quản lý dựa vào cộng đồng/ Mô hình đồng quản lý:

Phương thức quản lý nguồn lợi biển dựa trên cơ sở cộng đồng đã được áp dụng tại nhiều quốc gia, đặc biệt là những nước đang phát triển và được thừa nhận là phương thức hiệu quả, ít tốn kém để duy trì và quản lý nguồn lợi thủy sản, bảo vệ đa dạng sinh học và đáp ứng các mục tiêu bảo tồn khác cũng như nhu cầu sinh kế của con người. Trong khu vực, Phillipine, Indonesia… là những quốc gia đầu tiên sớm mạnh dạn triển khai áp dụng mô hình quản lý dựa vào cộng đồng và đã đạt được những thành công nhất định. Thông qua mô hình này cộng đồng địa phương ven biển được trao quyền cụ thể, có kiểm soát trong việc quản lý các nguồn lợi ven biển. Điều này đã tăng cường sự chủ động, thúc đẩy sự tham gia tích cực hơn của cộng đồng trong việc cùng chia sẻ trách nhiệm với nhà nước trong việc quản lý và bảo tồn hiệu quả các nguồn lợi biển.
Chú trọng các giải pháp bảo đảm sinh kế bền vững cho cộng đồng dân cư ven biển:
Thực tế cho thấy lâu nay đa số dân cư ở vùng ven biển thường nghèo và sống phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn lợi biển. Để giảm thiểu áp lực đối với nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, việc chú trọng tăng cường áp dụng các giải pháp dựa vào thị trường trong quản lý tài nguyên đồng thời chú trọng các giải pháp chuyển đổi nghề nghiệp, đảm bảo sinh kế bền vững cho cộng đồng dân cư ven biển cũng được các quốc gia hết sức quan tâm.
Đến nay, tại nhiều quốc gia, đặc biệt các quốc gia với số lượng ngư dân đông đảo như Trung Quốc, Indonesia,… đã có nhiều họat động, chương trình đa dạng sinh kế bền vững cho cư dân ven biển được triển khai như đào tạo nghề thủ công mỹ nghệ; hỗ trợ nuôi trồng thủy sản bền vững, xây dựng chương trình du lịch sinh thái gắn với các khu bảo tồn biển, đào tạo nghề hướng dẫn viên du lịch cho cộng đồng dân cư… và đã thu được những kết quả đáng khích lệ, ví dụ như tại Trung Quốc, số liệu thống kê cho thấy khuynh hướng giảm mạnh số ngư dân tham gia đánh bắt cá (giảm 13% từ năm +84888672676) trong khi đó số lượng ngư dân chuyển đổi nghề nghiệp qua lĩnh vực nuôi trồng thủy sản tăng cao trong những năm gần đây. Tại Phillipine, việc thành lập các khu bảo tồn ở quần đảo Apo đã tạo ra nhiều cơ hội việc làm trong lĩnh vực du lịch cho cư dân ven biển, theo ước tính hơn một nửa số hộ gia đình của Apo tham gia vào công việc du lịch hoặc ở California, một số ngư dân đã tham gia công việc hỗ trợ giám sát và nghiên cứu các khu bảo tồn…

Lồng ghép vấn đề thích ứng biến đổi khí hậu (BĐKH) vào trong chính sách, qui hoạch và công tác quản lý tài nguyên và môi trường biển:

Kể từ Công ước khung của Liên Hợp Quốc về BĐKH ra đời đến nay, nhiều quốc gia đã chú trọng, chủ động lồng ghép vấn đề BĐKH vào trong chính sách, qui hoạch và công tác quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường biển của mình. Tại Bangladesh, Chương trình hành động thích ứng với Chương trình hành động Quốc gia về thích ứng với BĐKH đã được xây dựng để lồng ghép biện pháp thích ứng BĐKH cụ thể vào trong nhiều lĩnh vực, ví dụ như quản lý đới bờ, quản lý tài nguyên nước, chương trình phòng tránh thảm họa thiên tai. Ở nhiều quốc gia khác, Chương trình hành động Quốc gia về thích ứng với BĐKH (NAPA) cũng đã được xây dựng và triển khai tạo cơ sở thúc đẩy lồng ghép vấn đề thích ứng biến đổi khí hậu vào trong chính sách, qui hoạch và công tác quản lý tài nguyên và môi trường biển để đẩy mạnh công tác ứng phó với BĐKH và quản lý tài nguyên môi trường biển hiệu quả hơn như: Butan, Congo, Tuvalu, Tanzania, Zambia…
Xây dựng cơ sở hạ tầng phòng chống thiên tai, thảm họa, chống xói lở bờ biển, bảo vệ dân cư, ứng phó với BĐKH:
Bên cạnh xây dựng các công trình kĩ thuật, cơ sở hạ tầng như xây tường bảo vệ bờ biển, đê, kè sông, kè biển, xây dựng kênh mương để kiểm soát lũ lụt…để phòng tránh, giảm thiệt hại do thiên tai, thảm họa gây ra, các giải pháp sinh học, phi công trình như tăng cường bảo vệ đa dạng sinh học, các hệ sinh thái tự nhiên ven biển nhằm tạo vùng đệm vững chắc, giúp giảm nhẹ thiệt hại, nâng cao khả năng ứng phó với biến đổi khí hậu cho người dân ven biển cũng được chú trọng triển khai, áp dụng tại nhiều quốc gia và được đánh giá như là một phương thức giảm nhẹ thiệt hại, ứng phó với BĐKH hiệu quả trong bối cảnh BĐKH ngày càng diễn biến phức tạp. Tại Indonesia, Srilanka, Ấn độ, Thái Lan và Malaysia, chương trình “Đới bờ xanh (Green Coast)” nhằm khôi phục nơi cư trú tự nhiên ven biển thông qua các hoạt động trồng đước, và các cây trồng ven biển đã được triển khai và thu được nhiều kết quả tích cực giúp bảo vệ cộng đồng dân cư trước tác động của biến đổi khí hậu bao gồm bão, lũ, lụt, xâm nhập mặn và xói mòn... hoặc tại Trinidad và Tobago, sau khi triển khai dự án trồng rừng, khôi phục đất ngập nước với sự hỗ trợ của WorldBank, hàng ngàn hecta diện tích đất ngập nước đã được trồng và khôi phục, dự án đã tạo ra một cơ hội quan trọng kết hợp giữa mục tiêu giảm thiểu khí nhà kính với nhu cầu thích ứng với BĐKH, đồng thời việc khôi phục đất ngập nước cũng tạo ra một vùng đệm, lá chắn tự nhiên quan trọng trước tác động của biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng...
Đẩy mạnh điều tra, khảo sát, quan trắc, nghiên cứu về tài nguyên, môi trường biển để sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển:

Tại các quốc gia biển, điều tra cơ bản biển được xác định là nhiệm vụ quan trọng, nền tảng và được tăng cường đầu tư triển khai hết sức mạnh mẽ. Các số liệu điều tra cơ bản này đã cung cấp những thông tin quan trọng, giúp công tác họach định chính sách biển có hiệu quả cao, đồng thời cung cấp cơ sở thông tin khoa học để bố trí không gian và phát triển các vùng biển phù hợp với sinh thái của từng vùng, hướng tới mục tiêu sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển

Tăng cường xây dựng, quản lý hệ thống cơ sở dữ liệu về tài nguyên môi trường biển:


Trong bối cảnh sau khi UNCLOS 1982 có hiệu lực đã thiết lập một trật tự mới về biển, đại dương, đối với các nước, tầm quan trọng của biển ngày càng được nhận thức cao. Cùng với đó, thời đại Internet phát triển nên việc lưu giữ số liệu, quản lý và cung cấp thông tin cũng thuận lợi và hệ thống thông tin GIS ứng dụng với web cũng đã phát triển mạnh. Việc thu thập, xây dựng, quản lý thông tin liên quan đến biển rất được chú trọng tại các quốc gia phát triển như Mĩ, EU, Canada, Úc… Tại EU, mạng dữ liệu mang tên SeaDataNet đã được thiết lập trở thành một trong các hệ thống kiểm tra dữ liệu lớn về biển với nguồn dữ liệu thông tin được cung cấp bởi nhiều cơ quan, tổ chức quốc tế. Tại Úc, ngay từ rất sớm, đã có nhiều nỗ lực tăng cường khả năng tiếp cận, truy cập thông tin và dữ liệu về biển, có thể kể đến là việc vận hành hệ thống với tên gọi “Blue Page 2000” ngay sau khi kết thúc thậpniên 1990, với mục đích là một trang thông tin có thể truy cập được các dữ liệu biển đặcbiệt là dữ liệu khu vực đới bờ vốn được quản lý rải rác ở nhiều cơ quan trong nước. Bên cạnh các công cụ tra cứu thông tin và dữ liệu, Úc còn chú trọng đến việc xây dựng dữ liệubản đồ nhằm giúp thuận lợi trong công tác hoạch định chính sách, thông qua ứng dụng kĩthuật WebGIS. Tại Mĩ, NOOA (Cục Khí tượng Hải dương) và một số cơ quan áp dụng hệthống “Danh bạ biển đa mục đích” (Multipurpose Marine Cadastre: MMC) với các ứngdụng về GIS để hiển thị các thông tin về biển do các cơ quan liên quan sở hữu. Liên quanđến việc quản lý tổng hợp, thống nhất thông tin tự nhiên biển và viễn thám biển, Mĩ còn xây dựng hệ thống “Liên lạc và Quản lý dữ liệu” (DMAC- Data Management and
Communication), đây là một hệ thống con của hệ thống IOOS (Hệ thống quan trắc biển tổng hợp- Integrated Ocean Observing System), nhằm quản lý thống nhất thông tin dữ liệu biển thu được từ các cơ quan liên quan.
Tăng cường giáo dục, đào tạo phát triển nguồn nhân lực biển phục công tác
điều tra, nghiên cứu và quản lý tài nguyên, môi trường biển:

READ  Bài tiểu luận về: Xây dựng nông thôn mới | Traloitructuyen.com

Giáo dục, đào tạo về biển có mục tiêu chính nhằm tăng cường hiểu biết của chúng ta về mối quan hệ cộng sinh giữa biển và con người. Bên cạnh đó, giáo dục, đào tạo về biển còn có mục tiêu xây dựng một đội ngũ, một nguồn nhân lực có kiến thức, kĩ năng, khả năng tư duy để quản lý, sử dụng bền vững, khai thác hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường biển góp phần vào sự phát triển bền vững, hòa bình và thịnh vượng chung trên toàn thế giới.
Giáo dục, đào tạo về biển cũng chính là việc thúc đẩy việc học tập làm quen với biển, hiểu biển, bảo vệ biển và sử dụng bền vững biển. Với vai trò quan trọng của giáo dục và đào tạo về biển trong việc xây dựng nguồn nhân lực biển nhằm phát triển bền vững biển, cho tới nay, chính sách thúc đẩy giáo dục, đào tạo về biển luôn là một trong những vấn đề trọng tâm được nêu trong các chính sách, chiến lược về biển tại nhiều quốc gia có biển trên thế giới.

Nâng cao nhận thức cộng đồng dân cư về biển để khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường:


Để cộng đồng hiểu rõ và quan tâm hơn đến biển, việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức cộng đồng về chính sách, pháp luật liên quan đến khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển được các nước quan tâm, chú ý đẩy mạnh. Tại Nhật Bản, nhằm tăng mối quan tâm và sự hiểu biết sâu rộng hơn về biển trong toàn dân, chính phủ Nhật đã tích cực phổ biến tuyên truyền, thúc đẩy giáo dục xã hội và học đường về biển, tuyên truyền phổ biến rộng rãi thông tin liên quan về Luật Biển, chú trọng phổ cập hóa thông qua các hoạt động vui chơi giải trí biển. Tại Mĩ, trong chính sách biển quốc gia cũng đã xác định xác định giáo dục, đào tạo để nâng cao hiểu biết, cải thiện tình trạng thiếu hiểu biết về khoa học và môi trường thông qua con đường giáo dục chính qui và phi chính qui, cần được tăng cường với các dự án có mục tiêu, liên tục đánh giá và cải tiến chính là nền tảng quan trọng của quốc gia biển trong tương lai…
Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về biển:
Với tầm quan trọng của biển, nhu cầu phát triển ngày càng cao, tiến ra biển trở thành trào lưu mạnh của các quốc gia có biển. Với xu hướng này, ngày càng có nhiều đường biên giới xuất hiện trên biển, tình hình này không ngăn cản được một nhận thức chung được hình thành đó là biển cả là một môi trường đồng nhất, là tài sản chung của nhân loại, đòi hỏi có sự hợp tác cao giữa các quốc gia nhằm giữ gìn biển trong lành. Trong một thế giớ ngày càng phức tạp hơn với nhiều vấn đề về tài nguyên và môi trường biển vượt qua khỏi phạm vi quốc gia, hợp tác quốc tế không chỉ đơn thuần là một sự lựa chọn mà là một sự cần thiết của các quốc gia. Trong những năm qua, các quốc gia trên thế giới cũng không ngừng thúc đẩy hợp tác quốc tế song phương và đa phương về biển, các lĩnh vực chủ yếu liên quan đó là thúc đẩy khoa học kĩ thuật biển, điều tra biển, cứu nạn trên biển, phòng tránh thảm họa, kiểm soát tội phạm trên biển, đào tạo nguồn nhân lực cho các lĩnh vực liên quan đến biển.

Mẫu 2

Ô nhiễm môi trường biển: Thực trạng, nguyên nhân và các biện pháp

Ô nhiễm môi trường biển: Thực trạng, nguyên nhân và các biện pháp

Ô nhiễm môi trường biển là một trong những vấn đề lớn trên toàn thế giới. Các vùng biển hiện nay đang ngày càng bị ô nhiễm nặng nề. Mà đây lại là một trong các nguyên nhân gây hại tới sức khỏe và các hoạt động sống của con người.

Vậy ô nhiễm môi trường biển là gì?

Nguyên nhân và các biện pháp khắc phục như thế nào? Hãy cùng tìm hiểu ngay những thông tin dưới đây để biết thêm. Môi trường biển bị ô nhiễm nặng nề Ô nhiễm môi trường biển là gì? Ô nhiễm môi trường biển là hiện tượng nước biển bị các nguyên nhân khác nhau tác động làm thay đổi tính chất. Gây nên những ảnh hưởng tiêu cực tới các chỉ số sinh hóa của nước biển.

Đồng thời, nó gây hại tới sức khỏe con người. Cũng như các sinh vật sống trên biển. Bởi, việc nguồn nước biển ô nhiễm sẽ kéo theo các loài sinh vật dười biển có nguy cơ bị tuyệt chủng. Kèm theo đó là hệ sinh thái, cảnh quan của biển cũng sẽ gặp những tác động tiêu cực và ảnh hưởng nặng nề.

Thực trạng ở Việt Nam Hiện Việt Nam đứng thứ tư trên thế giới về ô nhiễm rác thải biển (marine debris), đặc biệt là rác thải nhựa. Một số khu biển ven bờ và cửa sông bị ô nhiễm dầu, chất hữu cơ liên quan tới chất thải sinh hoạt. Đặc biệt là tình trạng ô nhiễm rác thải nhựa. Hay còn có những khu vực rừng ngập mặn tràn ngập túi rác thải nilon. Ngoài ra, hiện lượng chất thải rắn chất thải rắn sinh hoạt phát sinh của 28 tỉnh ven biển nước Việt Nam vào khoảng 14,03 triệu tấn/năm (khoảng 38.500 tấn/ngày). Tuy nhiên, không chỉ riêng Việt Nam, vấn đề khai thác tài nguyên và bảo vệ môi trường biển ở nhiều khu vực, quốc gia đang đứng trước những thách thức. Nguồn tài nguyên bị khai thác cạn kiệt, môi trường biển nhiều nơi bị ô nhiễm đến mức báo động. Gây ra thiệt hại nghiêm trọng, cản trở sự phát triển kinh tế – xã hội của nhiều quốc gia.

Nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường biển

Có rất nhiều nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường biển. Tình trạng ô nhiễm này chính là các hoạt động phát triển kinh tế, đặc biệt từ các nguồn thải công, nông nghiệp và vận tải biển. Theo đó, có thể kể tới một vài nguyên nhân chủ yếu như: Nguyên nhân tự nhiên Sự phun trào nham thạch của núi lửa dưới lòng biển cũng gây nên hiện tượng các loài sinh vật bị chết hàng loạt. Khiến nguồn nước bị thay đổi theo chiều hướng tiêu cực Do sự bào mòn hay sạt lở núi đồi. Do sự phun trào của núi lửa làm bụi khói bốc lên cao theo nước mưa rơi xuống đất. Do triều cường nước dâng cao vào sâu gây ô nhiễm các dòng sông Hòa tan nhiều chất muối khoáng có nồng độ quá cao, trong đó có chất gây ung thư như Asen và các chất kim loại nặng… Nguyên nhân do con người Việc sử dụng chất nổ, dùng điện, chất độc để đánh bắt thủy hải sản của con người sẽ khiến các loài sinh vật chết hàng loạt. Việc này có thể dẫn đến việc một số loài bị tuyệt chủng. Ngoài ra, do việc khai thác này rất khó kiểm soát nên các xác thủy hải sản còn xót lại trên biển sẽ bị phân hủy. Gây ô nhiễm cho nước biển. Các vùng nước lợ, rừng ngập mặn ven biển và các hệ rạn san hô chưa được bảo tồn tốt dẫn đến mất cân bằng hệ sinh thái dưới biển và làm mất đi môi trường sống của một số loài lưỡng cư. Chất thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp, nông nghiệp,…

Chưa được xử lý từ các khu đô thị hay các nhà máy sản xuất công nghiệp đổ ra sông. Rồi theo dòng chảy ra biển gây là nguyên nhân ô nhiễm nặng nề. Ngoài ra, việc vứt rác thải bừa bãi, thiếu văn hóa từ hoạt động du lịch. Đây chính là nguyên nhân gây nên hậu quả ô nhiễm môi trường biển nghiêm trọng. Việc khai thác dầu cũng là nguyên nhân khiến nước biển bị ô nhiễm. Ngoài ra, các sự cố tràn dầu cũng sẽ nước biển nhiễm một số chất độc hại. Hàng năm, các chất thải rắn đổ ra biển trên thế giới khoảng 50 triệu tấn, gồm đất, cát, rác thải, phế liệu xây dựng, chất phóng xạ. Một số chất thải loại này sẽ lắng tại vùng biển ven bờ. Một số chất khác bị phân hủy và lan truyền trong toàn khối nước biển. Hậu quả của ô nhiễm môi trường biển Ô nhiễm môi trường biển gây ra rất nhiều những hậu quả nghiêm trọng như: Làm suy thoái đa dạng sinh học biển, điển hình là hệ sinh thái san hô. Phá hoại và làm tuyệt chủng một số loài sinh vật, hải sản gần bờ. Mất mỹ quan, khiến doanh thu cảu ngành du lịch bị thiệt hại nặng nề. Làm hỏng hỏng những thiết bị máy móc, thiết bị khai thác tài nguyên và vận chuyển đường thủy.

Tác động và kìm hãm sự phát triển kinh tế biển,… Biện pháp Các hoạt động khai thác Kiểm soát môi trường biển là một trong những phương pháp để bảo vệ môi trường biển hiệu quả nhất. Cần có những hoạt động tuần tra, kiểm soát các hoạt động đánh bắt, khai thác trên biển. Nghiêm cấm những hành vi sử dụng chất nổ, kích điện hay hóa chất độc hại. Những hoạt động này sẽ khiến thủy hải sản bị chết hàng loạt khiến một số loài có khả năng bị tuyệt chủng. Cần có những chế tài xử phạt nghiêm khắc với những hành vi cố tình hay không chấp hành luật pháp của nhà nước. Ngoài ra, cần quy hoạch hoạt động đánh bắt thủy hải sản theo các khu, cụm, điểm công nghiệp, các làng nghề,… Để tránh tình trạng khai thác tràn lan, không phù hợp và khó quản lí như hiện nay. Xử lý khí thải, rác thải từ hoạt động công nghiệp Nước thải, chất thải từ các hoạt động sản xuất nông nghiệp và công nghiệp là nguồn gây ô nhiễm nguồn nước biển rất đáng chú ý. Do đó, nhà nước cần yêu cầu những công ty phải xây dựng hệ thống xử lý chất thải, nước thải trước khi thải xả ra môi trường.

Các giải pháp sinh học Bên cạnh việc xây dựng các hệ thống đê, kè, mương,… Để kiểm soát tình trạng thiên tai, lũ lụt,… Chúng ta cần sử dụng một số nguyên liệu có khả năng khử độc, khử khuẩn có nguồn gốc tử thiên nhiên để làm sạch môi trường. Như: vôi, than hoạt tính,… Đồng thời, tích cực phát động những hoạt động dọn dẹp vệ sinh môi trường theo định kỳ và giáo dục ý thức bảo vệ môi trường ngay từ trên ghế nhà trường. Trong những năm gần đây, nước ta đang khủng hoảng trong việc ô nhiễm môi trường, đặc biệt là môi trường biển. Mà biển có ảnh hưởng rất lớn đến môi trường sinh tồn của loài người. Bảo vệ biển là bảo vệ môi trường chung của nhân loại, tức là bảo vệ tương lai của loài người.

Traloitructuyen.com cũng giúp giải đáp những vấn đề sau đây:

  • Luận văn về ô nhiễm môi trường biển
  • Tiểu luận ô nhiễm môi trường biển
  • Tiểu luận về ô nhiễm môi trường pdf
  • Tiểu luận bảo vệ môi trường biển
  • Số liệu thống kê về ô nhiễm môi trường biển
  • Tiểu luận hậu quả của ô nhiễm môi trường
  • Hậu quả của ô nhiễm môi trường biển
  • Tiểu luận thực trạng ô nhiễm môi trường ở Hà Nội
See more articles in the category: Tiểu luận