Văn 12 CHUYÊN ĐỀ 3: BAKĨ NĂNG VIẾT BÀI VĂN NGHỊ …

Or you want a quick look:

CHUYÊN ĐỀ 3: BAKĨ NĂNG VIẾT BÀI VĂN NGHỊ LUẬN VĂN HỌC

Tiết 19:          

[external_link_head]

A. LÍ THUYẾT CHUNG

I. KHÁI QUÁT VỀ VĂN NGHỊ LUẬN

– Văn nghị luận là dùng ý kiến lí lẽ của mình để bàn bạc, để thuyết phục người khác về một vấn đề nào đó. Để thuyết phục được ý kiến phải đúng và thái độ phải đúng. Có thể gọi ý kiến là “lí” còn thái độ là “tình”. Có khi ý kiến đúng mà thái độ không đúng thì cũng kém giá trị và tác dụng. Có ý kiến đúng và thái độ đúng rồi lại phải có cách nghị luận hợp lí nữa.

– Các khái niệm cơ bản của văn nghị luận:

ŸLuận đề: là vấn đề đang được đưa ra bàn bạc, bình luận.

ŸLuận điểm: là các ý lớn, ý chính giúp làm sáng rõ cho vấn đề đang được bàn bạc, bình luận.

ŸLập luận: là cách thức trình bày các lí lẽ, dẫn chứng sao cho phù hợp, chặt chẽ, mang tính thuyết phục cao.

ŸLuận cứ: là cơ sở, căn cứ, điểm tựa đưa ra để lập luận.

ŸLuận chứng: là chứng cứ minh họa cụ thể đưa ra để lập luận.

– Nghị luận văn học là một dạng nghị luận mà các vấn đề đưa ra bàn luận là các vấn đề về văn học: tác phẩm, tác giả, thời đại văn học… có tính luận thuyết. Chính vì vậy mà nó đòi hỏi người viết phải có khả năng trình bày tư tưởng của mình và thuyết phục được người khác theo quan điểm đó.

– Yêu cầu bài văn nghị luận:

ŒVề kiến thức: Hiểu biết các vấn đề về: tư tưởng đạo lí, triết lí nhân sinh, lịch sử, xã hội, văn hóa… và đưa ra được quan điểm cá nhân về các vấn đề đó.

Về kĩ năng: Nắm vững các thao tác lập luận như: giải thích, phân tích, chứng minh, so sánh, bình luận, bác bỏ, tổng hợp... Văn nghị luận có thể có các chi tiết tự sự, biểu cảm, miêu tả, thuyết minh nhưng nó phải nhằm mục đích nghị luận.

– Bố cục của bài văn nghị luận gồm ba phần cụ thể:

1. Mở bài

– Giới thiệu vấn đề nghị luận.

– Dẫn ra vấn đề cần nghị luận.

– Khái quát vấn đề nghị luận.

2. Thân bài

– Làm rõ vấn đề nghị luận bằng sự kết hợp các thao tác lập luận như: giải thích, phân tích, chứng minh, so sánh, bình luận, bác bỏ, tổng hợp…

– Đánh giá và mở rộng vấn đề.

3. Kết bài

– Khái quát lại vấn đề vừa nghị luận.

– Liên hệ thực tế, bản thân.

II. CÁCH MỞ BÀI CHO BÀI VĂN NGHỊ LUẬN VĂN HỌC

1. Sơ lược

Để viết một mở bài đúng, trước hết phải xác định vấn đề được nêu ở đề bài, là tác giả hay tác phẩm, là yêu cầu về nội dung hay hình thức, là đề đóng (chìm) hay đề mở (nổi). Sau khi xác định đúng vấn đề, phải có những kiến thức nền tảng cơ bản và khái quát nhất để viết mở bài.

Để viết mở bài hay, phải đọc nhiều, vận dụng các cách diễn đạt mượt mà, bóng bẩy đã học được từ các tài liệu tham khảo. Để mở bài mượt mà hơn, lưu ý nên viết các câu dài, câu ghép, câu phức nhiều thành phần và tăng cường sử dụng các tính từ miêu tả, biểu cảm. M. Goor-ki đã từng kết luận: Khó hơn cả là phần mở đầu, cụ thể là câu đầu, cũng như trong âm nhạc, nó chi phối giọng điệu của tác phẩm mà người ta thường tìm nó rất lâu. Với yêu cầu đặt ra của việc viết đoạn mở bài một cách nhanh chóng, đảm bảo các yêu cầu chức năng của nó làm cho không ít học sinh cảm thấy khó khăn.

Để có một mở bài hấp dẫn. Trước hết, chúng ta cần nắm rõ nguyên tắc khi viết mở bài là: ngắn gọn, hấp dẫn, chỉ ra hướng giải quyết, phạm vi giải quyết vấn đề, tầm quan trọng, ý nghĩa của vấn đề để chuẩn bị tư tưởng cho người đọc theo dõi phần nội dung.

F Cũng xin lưu ý thêm với các em học sinh một số vấn đề cần tránh khi mở bài:

– Tránh dẫn dắt vòng vo xa quá mãi mới gắn được vào việc nêu vấn đề.

– Tránh ý dẫn dắt không liên quan gì đến vấn đề sẽ nêu.

– Tránh nêu vấn đề quá dài dòng, chi tiết, có gì nói hết luôn rồi thân bài lặp lại những điều đã nói ở phần mở bài.

2. Một số cách mở bài thường áp dụng

Thông thường viết phần mở bài có hai cách mở: mở trực tiếp (đi thẳng vào vấn đề); mở gián tiếp (dẫn dắt câu thơ, câu văn) để làm cầu nối cho ý tiếp sau.

a.Mở bài trực tiếp(trực khởi)

– Giới thiệu trực tiếp là đi thẳng vào vấn đề nghị luận đặt ra trong đề bài, đi từ cái chung đến cái riêng, từ khái quát đến cụ thể.

FLưu ý: Khi giới thiệu vài nét về tác giả nên tập trung vào phong cách nghệ thuật, đặc trưng riêng, nét độc đáo khác biệt hơn là giới thiệu một cách máy móc về năm sinh, năm mất, tên thật, quê quán, năm mấy tuổi làm gì… Giới thiệu vài nét về tác phẩm nên tập trung vào xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác, vị trí của tác phẩm trong sự nghiệp của tác giả trên văn đàn văn học của dân tộc.

– Ví dụ minh họa:

ŸPhân tích bài thơ Chiều tối trích trong tập thơ Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh.

Chiều tối là một bài thơ hay trích trong tập thơ Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh. Bài thơ được Bác sáng tác ngay trên đường bị giải đi từ nhà ngục Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo vào lúc chiều tàn. Ra đời trong hoàn cảnh ấy, bài thơ đã ghi lại bức tranh thiên nhiên và cảnh sinh hoạt của con người ở vùng rừng núi một cách sinh động.

ŸPhân tích tác phẩm Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài để thấy được ý nghĩa nhân đạo cao đẹp trong thiên truyện.

Vợ chồng A Phủ là một trong những truyện ngắn đặc sắc được rút trong tập Truyện Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài, tác phẩm được giải Nhất về truyện ngắn của Hội Văn nghệ Việt Nam năm 1954 – 1955. Đây là tác phẩm văn xuôi tiêu biểu viết về đề tài miền núi thời kì chống Pháp. Thông qua số phận của Mị và A Phủ, nhà văn Tô Hoài đã đem đến cho chúng ta một sự nhận thức đúng đắn, đầy đủ về tội ác của bọn thực dân Pháp và bọn địa chủ phong kiến, cũng như về đời sống tăm tối, khổ nhục của những người dân lao động trên miền cao vùng Tây Bắc. Từ thân phận nghèo khổ và sức mạnh tiềm tàng trong mỗi con người lao động ở đây, tác phẩm đã thể hiện một cách chân thực, sinh động quá trình thức tỉnh, con đường đến với cách mạng và trở thành lực lượng đáng tin cậy của Đảng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp của người nông dân miền núi. Qua tác phẩm ca ngợi ý nghĩa nhân đạo đẹp đẽ của sự nghiệp giải phóng con người ra khỏi ách áp bức bóc lột.

b. Mở bài gián tiếp (lung khởi)

– Mở bài gián tiếp là dẫn dắt vào đề bằng cách nêu các ý có liên quan đến vấn đề cần nghị luận để kích thích trí tò mò, gợi sự chú ý của người đọc rồi từ đó mới nêu lên vấn đề chính.

– Khi sử dụng cách mở bài gián tiếp, người viết cần lựa chọn điểm xuất phát sao cho: từ đó có thể dẫn đến đề tài; có khả năng tạo ra cảm giác gần gũi, quen thuộc với người đọc (người nghe) có sự gợi nghĩ (gợi cảm). Để bài viết có không khí tự nhiên và có chất văn, người ta thường mở bài theo kiểu gián tiếp.

– Dù viết mở bài gián tiếp theo cách nào thì trong đó cũng cần làm rõ ba vấn đề chính:

Œ Nêu ngắn gọn về tác giả, tác phẩm, xuất xứ;

Nêu vấn đề (dựa vào gợi ý ở đề bài);

Ž Nêu cảm nhận của mình về vấn đề.

– Ví dụ minh họa:

ŸPhân tích diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân.

B. Sô đã từng nói: Vũ trụ có nhiều kì quan, nhưng kì quan tuyệt diệu nhất vẫn là trái tim người mẹ. Quả thật vậy, trái tim của người mẹ luôn là kì quan vĩ đại, là tòa bảo tháp ngự trị vĩnh hằng và sừng sững giữa cuộc đời. Tác phẩm văn học, nhất là những tác phẩm viết về người mẹ luôn là những tác phẩm thành công nhất. Văn học Việt Nam cũng đã từng ghi nhận những đóng góp lớn lao ấy về người mẹ. Một trong những tác phẩm tạo nên niềm xúc động sâu sắc về người mẹ phải kể đến truyện ngắnVợ nhặt của nhà văn Kim Lân. Dưới ngòi bút tài hoa và tinh tế của Kim Lân vốn một đời đi về với ruộng đồng và thuần hậu nguyên thủy của làng quê, vẻ đẹp lớn lao kì vĩ của trái tim người mẹ và tình mẫu tử thắm thiết thiêng liêng cũng ngời lên trọn vẹn và sâu sắc qua diễn biến tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ.

ŸCảm nhận về vẻ đẹp của đoạn trích Đất Nước trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm:Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồiĐất Nước có từ ngày đó

Niềm vui của nhà thơ chân chính là niềm vui của người mở đường đến với cái đẹp (Pautôpxki). Và sứ mệnh thiêng liêng ấy của người nghệ sĩ đã mang đến cho đời bao áng thơ lay động lòng người. Trong những tháng năm đánh Mĩ gian khổ mà hào hùng của dân dộc Việt Nam, bao người nghệ sĩ đã viết về vẻ đẹp của đất nước, đã mở đường đến với không gian núi sông, con người đất mẹ. Và hôm nay đây đọc lại những vần thơ ấy ta không khỏi bồi hồi xúc động. Đoạn thơ về Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm là một ví dụ điển hình cho vẻ đẹp của đất nước và cũng là vẻ đẹp của tâm hồn dân tộc.

c. Một số kiểu mở bài gián tiếp

ŒMở bài theo kiểu diễn dịch tức là nêu những ý khái quát hơn vấn đề đặt ra trong đề bài rồi mới bắt vào vấn đề ấy.

– Ví dụ minh họa: Phân tích bài thơ Sóng của nữ sĩ Xuân Quỳnh.

(1) Xuân Quỳnh, như mọi người đều biết, là nhà thơ của hạnh phúc đời thường. (2) Thơ chị là tiếng lòng của một tâm hồn luôn khát khao tình yêu, gắn bó hết mình với cuộc sống hàng ngày, trân trọng nâng niu và chăm chút cho hạnh phúc bình dị của đời thường. (3) Trong các nhà thơ Việt Nam hiện đại, Xuân Quỳnh là một trong số những người xứng đáng được gọi là nhà thơ của tình yêu. (4) Chị viết nhiều, viết hay về tình yêu, trong đó Sóng là một bài thơ đặc sắc. Đến Xuân Quỳnh, thơ hiện đại Việt Nam mới có được một tiếng nói bày tỏ trực tiếp những khao khát tình yêu vừa hồn nhiên, chân thật vừa mãnh liệt, sôi nổi của một trái tim phụ nữ.

Þ Đây là đoạn mở bài theo kiểu diễn dịch: Phần dẫn dắt: câu (1), (2) nêu khái quát về phong cách thơ Xuân Quỳnh – “nhà thơ của hạnh phúc đời thường”. Câu (3) thu hẹp nhận định trong mảng thơ tình yêu của nữ sĩ. Phần nêu vấn đề: câu (4), (5) “tiếng nói bày tỏ trực tiếp những khao khát tình yêu vừa hồn nhiên, chân thật vừa mãnh liệt, sôi nổi của một trái tim phụ nữ”.

Mở bài theo kiểu quy nạp tức là nêu lên những ý nhỏ hơn vấn đề đặt ra trong đề bài rồi tổng hợp lại thành vấn đề cần nghị luận.

– Ví dụ minh họa: Phân tích cảnh Huấn Cao cho chữ trong truyện ngắn Chữ người tử từ của Nguyễn Tuân.

(1) Có những tác phẩm văn chương khiến ta sững sờ trước cái đẹp, trước tài năng. (2) Có những đoạn văn làm ta ngạc nhiên trước một nhân cách cao cả, một bút pháp tinh luyện. (3) Đoạn văn tả cảnh cho chữ trong thời gian ở cuối truyện Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là một trong số không nhiều những trường hợp như thế.

ÞĐây là đoạn mở bài theo kiểu quy nạp:Câu (1), (2) đưa ra hai nhận định về tác phẩm văn chương lớn và đoạn văn hay. Câu (3) tổng hợp ý của hai câu trên, đồng thời giới thiệu vấn đề cần nghị luận: đoạn văn tả cảnh cho chữ trong truyện Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân.

ŽMở bài theo kiểu tương liên (tương đồng) là mở bài bằng cách bắt đầu nêu lên một ý tương tự hoặc có liên quan với ý của luận đề, có tác dụng gợi ra sự liên tưởng rồi chuyển sang luận đề.

– Ví dụ minh họa: Phân tích nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài.

(1) Chúng ta đã gặp không ít những số phận người phụ nữ bi thương trong các tác phẩm văn học Việt Nam, đó là một nàng Vũ Nương oan khuất, một nàng Kiều bi kịch, một chị Dậu tủi hờn... (2) Nhưng khi tiếp cận với dòng văn học cách mạng, vẫn những người phụ nữ ngày xưa ấy lại trỗi dậy mạnh mẽ đứng dậy làm chủ đời mình. (3) Một trong những nhân vật văn học nữ tiêu biêu biểu là Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Nhà văn Tô Hoài.

ÞĐây là đoạn mở bài theo kiểu tương liên: Câu (1) đưa ra dẫn chứng về những số phận bi thương của người phụ nữ trong văn học xưa và nay. Câu (2) dẫn dắt vào vấn đề (khi tiếp cận với dòng văn học cách mạng…). Câu (3) thâu tóm vấn đề cần bàn luận từ câu (1) và câu (2).

Mở bài bằng cách đặt câu hỏi (nghi vấn) là kiểu mở bài mà người viết tự đề xuất câu hỏi về vấn đề cần bàn. Trả lời câu hỏi chính là cách giải quyết vấn đề, nêu lên được vấn đề cần bàn bạc.

– Ví dụ minh họa: Phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam.

(1) Có ai đọc truyện ngắn của Thạch Lam mà không khỏi “rùng mình” trước cơn gió lạnh đầu mùa – cơn gió Thạch Lam? (2) Có ai không một lần ngẩn ngơ, bồi hồi trước những lời văn như được chắt chiu từ hương hoàng lan của cuộc đời bình dị? (3) Có ai quên được sức ám ảnh của bóng tối và ánh sáng, của khát vọng sống mãnh liệt trong truyện của ông? (4) Tôi đang đi trên con đường chi chít những dấu chân, con đường vang vọng tiếng trống thu không của cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều, con đường đến với Hai đứa trẻ.

Nói chung có nhiều cách mở bài khác nhau. Phần lớn, học sinh sử dụng cách viết mở bài theo lối gián tiếp.

Trong năm kiểu nhỏ của cách mở bài gián tiếp thì kiểu mở bài theo lối tương liên đòi hỏi người viết phải có kiến thức rộng, có hiểu biết về những vấn đề liên quan cần nghị luận và phải có cảm nhận tinh tế trước mọi vấn đề để nhìn vào đó có thể tìm ra mối quan hệ tương liên; còn kiểu mở bài theo lối tương phản thường áp dụng cho học sinh có cảm thụ tốt, nhuần nhuyễn và điêu luyện, vì nội dung của nó tương đối phức tạp. Hai kiểu mở bài này phổ biến đối với học sinh khá, giỏi.

Như vậy, để viết được đoạn mở bài hay không chỉ đảm bảo đầy đủ nội dung, tức là thực hiện được chức năng nêu vấn đề của nó, cũng như có phương pháp (kĩ năng) dẫn dắt vấn đề.

Lớp

Ngày soạn

Ngày giảng

HS vắng

12A

12D

12E

CHUYÊN ĐỀ 3: BAKĨ NĂNG VIẾT BÀI VĂN NGHỊ LUẬN VĂN HỌC

Tiết 20:          

A. LÍ THUYẾT CHUNG

III. VIẾT PHẦN THÂN BÀI CHO BÀI VĂN NGHỊ LUẬN VĂN HỌC

1. Phương thức khi viết thân bài

Thân bài là phần giải quyết vấn đề, phần trung tâm của một bài văn, đoạn văn nghị luận. Vì vậy, khi viết thân bài cần kết hợp nhiều thao tác và có nhiều phương thức trình bày khác nhau theo yêu cầu của đề bài.

Tuy nhiên, về cơ bản, viết thân bài thân đoạn cần tuân theo các bước cơ bản sau:

(1) Tìm ý, chọn lọc ý¨ (2) Sắp xếp ý thành kết cấu¨ (3) Chọn thao tác, phương thức lập luận, chọn dẫn chứng, lí lẽ¨ (4) Viết đoạn văn.

Bước 1. Tìm ý, chọn lọc ý

– Đọc thật kĩ đề bài xem đề yêu cầu gì? (Tìm dạng đề).

– Ngữ liệu (nếu có) có nội dung chính là gì? Nghĩa đen, nghĩa bóng? (Tìm luận đề)

– Có thể chia nhỏ các vấn đề/ ngữ liệu đề cho thành tác phẩm nhỏ không? (Tìm cơ sở chia luận điểm).

– Để thực hiện yêu cầu của đề, ta cần thực hiện những nhiệm vụ nào? (Tìm luận điểm).

– Cần lật ngược vấn đề hay mở rộng vấn đề không? (Tìm ý bàn bạc luận đề).

Bước 2. Sắp xếp ý thành kết cấu

– Người viết muốn sắp xếp các ý theo trình tự nào?

– Những ý nào cần trình bày trước, những ý nào trình bày sau?

– Việc sắp xếp các ý như vậy đã hợp lí chưa?

– Thân bài chia thành mấy ý chính?

Bước 3. Chọn thao tác, phương thức lập luận, chọn dẫn chứng, lí lẽ

– Trong mỗi ý chính cần những dẫn chứng, lí lẽ nào? (Tìm luận cứ).

– Ở mỗi ý cần sử dụng những thao tác lập luận nào? (Tìm cách lập luận).

– Mỗi đoạn sẽ sử dụng phương thức lập luận nào? (Tìm phương thức lập luận).

Bước 4. Viết đoạn văn

– Độ dài mỗi ý khoảng bao nhiêu? Tổng độ dài thân bài là bao nhiêu?

– Khi viết xong, luận đề đã sáng tỏ chưa?

– Các ý có thống nhất và liên kết chặt chẽ với nhau không?

– Câu chữ đã sáng rõ, mạch lạc chưa?

2. Các yêu cầu nội dung cơ bản khi viết phần thân bài

– Hành văn mạch lạc.

– Giải quyết luận đề, luận điểm hợp lí và thuyết phục.

– Các luận điểm trong phần thân đoạn phải có sự liên kết chặt chẽ.

IV. CÁCH VIẾT PHẦN KẾT BÀI TRONG VĂN NGHỊ LUẬN

1. Cách kết bài đạt hiệu quả

Phần Kết bài có nhiệm vụ tổng kết, đánh giá vấn đề đặt ra ở Mở bài và đã giải quyết ở Thân bài. Phần này góp phần tạo tính hoàn chỉnh, trọn vẹn cho bài văn. Tùy vào mục đích nghị luận, người viết có thể sử dụng một trong các cách kết bài sau đây:

a. Kết bài bằng cách tóm lược

– Là kiểu kết bài mà ở đó người viết tóm tắt quan điểm, tổng hợp những ý chính đã nêu ở Thân bài. Cách kết bài này dễ viết hơn và thường được sử dụng nhiều hơn.

– Ví dụ minh họa: Từ cuộc đời của các nhân vật phụ nữ trong hai tác phẩm Vợ nhặt(Kim Lân)Vợ chồng A Phủ(Tô Hoài), anh (chị) hãy phát biểu suy nghĩ của mình về số phận người phụ nữ xưa và nay.

Như vậy, các nhân vật nữ trong hai tác phẩm Vợ nhặt (Kim Lân) và Vợ chồng A Phủ(Tô Hoài) có nhiều điểm chung. Họ đều là những người phụ nữ có số phận bất hạnh, cơ cực nhưng trong tâm hồn họ đều tiềm tàng một sức sống và ý thức vươn lên. Người phụ nữ ngày nay có nhiều khác biệt, họ đã biết khẳng định vị trí của mình trong xã hội và càng ngày càng vươn tới những đỉnh cao mới.

b. Kết bài bằng cách bình luận mở rộng và nâng cao

– Là kiểu kết bài trên cơ sở quan điểm chính của bài viết, bằng liên tưởng, vận dụng, người viết phát triển, mở rộng nâng cao vấn đề.

– Ví dụ minh họa: Từ cuộc đời của các nhân vật phụ nữ trong hai tác phẩm Vợ nhặt(Kim Lân)Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài), anh (chị) hãy phát biểu suy nghĩ của mình về số phận người phụ nữ xưa và nay.

Làm thế nào để một nửa thế giới luôn được sống hạnh phúc và ngày càng được hạnh phúc hơn? Làm thế nào để tất cả phụ nữ Việt Nam luôn ngập tràn trong tiếng cười? Và làm như thế nào để mỗi người phụ nữ không còn khổ đau?… Đó là những câu hỏi không dành riêng cho bất cứ ai, không dành riêng cho phái nam mà chính những người phụ nữ cũng phải trả lời chúng.

2. Mẹo viết phần kết bài trong tình thế cấp bách

– Tình thế cấp bách là khi sắp hết giờ, hoặc khi tâm lí căng thẳng, chúng ta không thể trau chuốt cho phần kết bài được. Một số em học yếu có thể vận dụng kiểu kết bài chung chung, mang tính công thức. Cách Kết bài bằng cách tóm lược dễ làm nhất. Khi chỉ còn vài phút, các em có thể kết bài chung chung, tất nhiên nếu làm như vậy sẽ không được điểm cao, nhưng “có còn hơn không”, các em sẽ gỡ gạc được 0,5 điểm bố cục, vì nếu hai phần trên có làm tốt đến mấy mà không có phần kết bài thì bài làm sẽ bị mất 0,5 điểm. Mặt khác còn gây cụt hứng, mất thiện cảm ở người chấm.

– Nếu đề bài cho phân tích nhân vật, phân tích tác phẩm, hoặc phân tích đoạn thơ, thì kết bài các em có thể “khen” (hoặc chê) chung chung, cứ khen nhân vật, khen tác phẩm hay, khen nghệ thuật đặc sắc… Hoặc đề bài nghị luận về tư tưởng đạo lí thì khen (hoặc chê) tư tưởng đạo lí đó, liên hệ bản thân… Nghị luận về hiện tượng tiêu cực thì chê hiện tượng đó…

– Ví dụ minh họa:

Ÿ Ví dụ minh họa 1: Tìm hiểutừmình”, “taaitrongđoạn tríchViệt Bắc của Tố Hữu.

Tóm lại, “mình”, “ta”, “ai” là những từ xưng hô đã được Tố Hữu sử dụng linh hoạt trong đoạn tríchViệt Bắc để tạo nên sự gắn bó rất thú vị giữa người ở, người về, tạo nên sự bâng khuâng, bịn rịn, lưu luyến không thể tách rời giữa Việt Bắc với những người đã gắn bó với quê hương cách mạng, với Thủ đô lồng lộng gió ngàn.

Ÿ Ví dụ minh họa 2: Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong truyện Vợ nhặt của Kim Lân.

Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, là tác phẩm giàu giá trị hiện thực và nhân đạo; là bài ca về tình người ở những người nghèo khổ, ca ngợi niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng của con người. Truyện đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật bà cụ Tứ, một người mẹ nghèo khổ mà ấm áp tình thương, niềm hi vọng, lạc quan qua cách dựng tình huống truyện và dẫn truyện độc đáo, nhất là ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, khiến tác phẩm mang chất thơ cảm động và hấp dẫn.

********************************************************

Lớp

Ngày soạn

Ngày giảng

HS vắng

12A

12D

12E

CHUYÊN ĐỀ 3: BAKĨ NĂNG VIẾT BÀI VĂN NGHỊ LUẬN VĂN HỌC (TT)

Tiết 21:          

A. LÍ THUYẾT CHUNG

V. CÁCH DỰNG ĐOẠN VĂN VÀ LIÊN KẾT ĐOẠN VĂN

1. Dựng đoạn

a.Về nội dung

– Đoạn văn là một ý hoàn chỉnh ở một mức độ nhất định nào đó về lôgic ngữ nghĩa, có thể nắm bắt được một cách tương đối dễ dàng.

– Mỗi đoạn văn trong văn bản diễn đạt một ý, các ý có mối liên quan chặt chẽ với nhau trên cơ sở chung là chủ đề của văn bản.

– Mỗi đoạn trong văn bản có một vai trò chức năng riêng và được sắp xếp theo một trật tự nhất định: đoạn mở đầu văn bản, các đoạn thân bài của văn bản (các đoạn này triển khai chủ đề của văn bản thành các khía cạch khác nhau), đoạn kết thúc văn bản.

– Mỗi đoạn văn bản khi tách ra vẫn có tính độc lập tương đối của nó: nội dung của đoạn tương đối hoàn chỉnh, hình thức của đoạn có một kết cấu nhất định.

b. Về hình thức

Đoạn văn là phần văn bản:

– Bắt đầu từ chữ viết hoa lùi vào đầu dòng.

– Kết thúc là một dấu chấm xuống dòng.

– Đoạn có một hoặc do nhiều câu liên kết tạo thành.

c. Kết cấu của một đoạn văn nghị luận

– Câu mở đoạn: lêu lên luận điểm của cả đoạn, câu mở đoạn cần ngắn gọn rõ ràng.

– Câu phát triển đoạn: gồm một số câu liên kết nhau: câu giải thích, câu dẫn chứng, câu phân tích dẫn chứng, câu so sánh, câu bình luận, câu khẳng định, câu phủ định…

– Câu kết đoạn: là câu nhận xét, đánh giá vấn đề vừa triển khai, tiểu kết cả đoạn.

– Câu chủ đề: là câu mang ý chính của toàn đoạn. Vị trí của câu chủ đề tùy thuộc vào kết cấu của đoạn.

d. Kết luận

Như vậy để viết được một đoạn văn theo cách quy nạp, diễn dịch, móc xích hay song hành… học sinh cần xác định được luận điểm, câu chủ đề, vị trí của câu chủ đề trong đoạn văn, tìm đủ luận cứ cần thiết tổ chức lập luận theo một trật tự hợp lí để làm nổi bật luận điểm. Đây là cách hiểu hợp lí, thỏa đáng hơn cả giúp người đọc nhận diện đoạn văn trong văn bản một cách nhanh chóng, thuận lợi đồng thời giúp người viết tạo lập văn bản bằng cách xây dựng từng đoạn văn được rõ ràng, rành mạch.

2. Liên kết đoạn

a. Khái quát chung

– Một bài văn nghị luận được xem là mạch lạc, chặt chẽ khi giữa các luận điểm, các đoạn văn trong bài văn có mối quan hệ gắn bó về ý nghĩa và liên kết với nhau bằng những phương tiện liên kết nhất định. Do đó, để tạo nên sự liên kết giữa các đoạn trong một bài văn, người viết phải đảm bảo hai yêu cầu cơ bản:

+ Một là, tạo được quan hệ ý nghĩa giữa các đoạn (quan hệ liệt kê, quan hệ thứ tự, quan hệ song song, quan hệ tương đồng, quan hệ tương phản đối lập, quan hệ tăng tiến, quan hệ nhân – quả, quan hệ cụ thể – khái quát…).

+ Hai là, lựa chọn và sử dụng các phương tiện liên kết sao cho phù hợp với mối quan hệ ý nghĩa giữa các đoạn.

– Thực tế trong trường học hiện nay, nhiều em học sinh chưa nắm chắc kĩ năng dựng đoạn, liên kết đoạn, triển khai bài văn còn lộn xộn, giữa các đoạn chưa có sự lập luận hợp lôgic. Vì thế, qua kinh nghiệm trực tiếp giảng dạy và chấm thi tôi đưa ra một vài cách liên kết đoạn thông thường, để giúp các em có thêm kĩ năng liên kết đoạn trong văn nghị luận.

b. Cách liên kết

– Có thể dùng từ ngữ hoặc dùng câu để liên kết các đoạn văn. Cách dùng từ ngữ để liên kết:

Ÿ Từ ngữ liên kết các đoạn văn có quan hệ liệt kê: Thứ nhất… – Thứ hai…; Một là… – Hai là…; Trước tiên… – Tiếp theo… – Sau cùng

Ÿ Từ ngữ liên kết các đoạn văn có quan hệ thứ tự: Trước hết… – Một đặc điểm nữa là

Ÿ Từ ngữ liên kết các đoạn văn có quan hệ song song: Một mặt… – Mặt khác… – Ngoài ra… – Bên cạnh đó

Ÿ Từ ngữ liên kết các đoạn văn có quan hệ tương đồng: Tương tự… –Cũng thế… – Cũng vậy… – Cũng giống như trên

Ÿ Từ ngữ liên kết các đoạn văn có quan hệ tương phản đối lập: Nhưng song, trái lại, ngược lại, thế mà, tuy nhiên, tuy vậy, thế nhưng

Ÿ Từ ngữ liên kết các đoạn văn có quan hệ tăng tiến: Vả lại, hơn nữa, thậm chí, chưamấy, đi xa hơn nữa

Ÿ Từ ngữ liên kết các đoạn văn có quan hệ nhân – quả: Bởi vậy, bởi thế, cho nên, vì vậy, vì thế, chính vì vậy, chính vì thế, do đó, vậy nên, vì lí do trên

Ÿ Từ ngữ liên kết các đoạn văn có quan hệ cụ thể – khái quát: đối với trường hợp này, đoạn văn trước mang ý nghĩa cụ thể, đoạn văn sau mang ý nghĩa tóm tắt, tổng kết, khái quát. Từ ngữ liên kết được sử dụng ở đoạn văn sau có thể là: Tóm lại, nhìn chung, nói tóm lại, vậy là tổng kết lại, chung quy lại

c. Cách dùng câu để liên kết

– Câu nối có nhiệm vụ tóm tắt nội dung của đoạn trước và mở ra nội dung của đoạn sau:

ŸKhông những A (nội dung đoạn trước) mà còn B (nội dung khái quát của đoạn sau).

FVí dụ khi nghị luận về cuộc đời và thơ văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh không những là người giàu lòng yêu nước mà còn có tấm lòng yêu thương nhân dân sâu sắc…

ŸCàng A (nội dung đoạn trước)… càng B (nội dung khái quát của đoạn sau).

FVí dụ khi nghị luận về bài thơ Khi con tu hú của Tố Hữu: Bị giam cầm cách biệt với thế giới bên ngoài, càng cảm thấy cô đơn bao nhiêu, nhà thơ (Tố Hữu) càng khao khát cuộc sống tự do bấy nhiêu…

ŸNếu A (nội dung đoạn trước)… thì B (nội dung khái quát của đoạn sau).

FVí dụ khi nghị luận về tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố:… Nếu bọn quan lại tham ô, tàn ác bao nhiêu thì bọn địa chủ lại bủn xỉn, keo kiệt bấy nhiêu…

– Dùng câu hỏi để tự mở ra một ý cho đoạn mới (đoạn văn sau):

F Ví dụ minh họa1: Khi nghị luận về câu tục ngữ Ăn quả nhớ người trồng cây: … Vấn đề đặt ra ở đây là, vì sao khi “ăn quả” ta phải nhớ đến “người trồng cây?”...

[external_link offset=1]

F Ví dụ minh họa 2: Khi nghị luận về hai câu thơ trong bài Nửa đêm (trích Nhật kí trong tù) của Hồ Chí Minh:… Quan niệm mà Bác nêu ra ở hai câu thơ này có ý nghĩa như thế nào? Chúng ta cần vận dụng như thế nào cho đúng?

F Ví dụ minh họa 3: Khi nghị luận về bài thơ Đồng chí của Chính Hữu: … Nói lên vẻ đẹp nào của tình đồng chí, nhà thơ muốn giãi bày điều gì?

3. Ví dụ minh họa về dựng đoạn văn và liên kết đoạn văn

Đề bàiPhân tích những nét chung và đặc điểm riêng của cảm hứng về quê hương đất nước trong các bài thơ Bên kia sông Đuống (Hoàng Cầm), Đất nước (Nguyễn Đình Thi) vàViệt Bắc (Tố Hữu).

HƯỚNG DẪN LÀM BÀI

I. Mở bài

– Tình yêu quê hương đất nước là một nguồn thơ không bao giờ vơi cạn trong văn học nước ta. Đó là cảm hứng chủ đạo của thơ kháng chiến chống Pháp, nó thấm đượm trong từng ngòi bút thơ, đến từng bài thơ. Một Bài ca vỡ đất (Hoàng Trung Thông), những người lính Tây Tiến, những bà bầm, bà bủ, cho đến cả mối tình Núi đôi (Vũ Cao) và tiếng súng Viếng bạn (Hoàng Lộc)… tất cả đều được ủ nóng và chiếu sáng bằng tình yêu quê hương đất nước. Trong mạch cảm hứng chung ấy, Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Việt Bắc của Tố Hữu và Đất nước của Nguyễn Đình Thi nổi lên như những tiếng thơ sâu lắng thiết tha, những gương mặt tiêu biểu về quê hương đất nước.

Þ Mở bài theo lối diễn dịch, mang sắc thái văn chương.

II. Dựng một đoạn văn và liên kết đoạn văn

Phần I. Cảm hứng chung về đất nước giàu đẹp trong ba bài thơ

1. Cảm hứng về đất nước đau thương và căm thù trong chiến tranh (mang âm hưởng xót xa căm giận)

a. Bên kia sông Đuống

– Hình ảnh giặc tàn phá xóm làng tan hoang (Học sinh lấy dẫn chứng để chứng minh).

– Hình ảnh mẹ già chạy giặc bước cao thấp bên bờ tre hun hút.

– Hình ảnh em thơ trong giấc mơ thon thót giật mình

– Lời nguyền phẫn nộ: Đã có đất này chép tộiChúng ta không biết nguôi hờn.

b. Đất nước

– Hình ảnh cô đúc về gương mặt đất nước bị hủy diệt tàn bạo: Ôi những cánh đồng quê chảy máuDây thép gai đâm nát trời chiều.

– Số phận cực nhục của những người dân nô lệ: Bát cơm chan đầy nước mắtBay còn giằng khỏi miệng ta

– Nỗi đau ấy đã khiến cho gốc lúa bờ tre hồn hậu cũng phải bật lên những tiếng căm hờn

c. Việt Bắc

– Quê hương cách mạng trong những ngày “trứng nước” gian nan hiện lên ngậm ngùi qua những máinhà hắt hiu lau xám, qua miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai, và nhất là qua hình ảnh: Người mẹ nắng cháy lưngĐịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

2. Cảm hứng về đất nước giàu đẹp (mang âm hưởng ca ngợi tự hào)

a. Bên kia sông Đuống

– Dòng sông Đuống lấp lánh chảy giữa đôi bờ ngô khoai biêng biếc, dâu mía xanh xanh.

– Mùi lúa nếp thơm nồng và tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trongMàu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp.

b. Đất nước

– Đất nước đẹp giàu hiện lên qua những hình ảnh tiêu biểu, thân quen: Những cánh đồng thơm mátNhững ngả đường bát ngátNhững dòng sông đỏ nặng phù sa

– Và cả buổi sáng thu Hà Nội mát trong với hơi may xao xác, với hương cốm đầu mùa…

c. Việt Bắc

– Những cảnh thơ mộng trữ tình: Nhớ gì như nhớ người yêuTrăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương; những cảnh hùng vĩ: Núi giăng thành lũy sắt dàyRừng che bộ đội, rừng vây quân thù

– Nhưng đẹp nhất là bức tranh tứ bình của Việt Bắc qua bốn mùa, chan hòa màu sắc, ánh sáng, âm thanh, đẹp như trong cảnh thần tiên: Rừng xanh hoa chuối đỏ tươiNhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

FLưu ý:

– (Nêu và phân tích, chứng minh ý rõ, kết hợp nhuần nhị với dẫn chứng, cách viết có cảm xúc).

– Liên hệ các đoạn văn trong bài làm.

+ Từ cảm hứng chung về đất nước giàu đẹp chuyển tiếp sang ý 3 của phần I (Cảm hứng về nhân dân anh hùng – tình nghĩa):

Đất nước đẹp tươi ấy lại là nơi sinh ra một nhân dân anh hùng – tình nghĩa.

(Liên kết hai đoạn văn bằng một câu chuyển tiếp, trong đó phần đầu câu là tóm tắt ý đoạn trên (đất nước đẹp tươi ấy) và phần cuối câu là mở ra ý đoạn dưới (nhân dân anh hùngtình nghĩa)).

3. Cảm hứng về nhân dân anh hùngtình nghĩa (âm hưởng ca ngợi tự hào)

a. Bên kia sông Đuống

– Anh hùng: những người du kích đánh giặc đã làm cho chúng phát điên, quay cuồng như xéo trên đống lửa

– Tình nghĩa: những bà mẹ chiến sĩ đón con bộ đội về trong đêm, ấm áp tình quân dân kháng chiến: Đêm buông xuống dòng sông ĐuốngNhững chuyện muôn đời không nói năng.

b. Đất nước

– Anh hùng: truyền thống bất khuất của dân tộc: Đêm đêm rì rầm trong tiếng đấtNhững buổi ngày xưa vọng nói về và gương mặt của những người hôm nay: Ôm đất nước những người áo vảiĐã đứng lên thành những anh hùng đã làm nên một đất nước trưởng thành, tỏa sáng: Súng nổ rung trời giận dữRũ bùn đứng dậy sáng lòa.

– Tình nghĩa: những con người anh hùng ấy lại “hồn hậu như gốc lúa bờ tre” và trong những đêm dài hành quân nung nấu vẫn bồn chồn nhớ mắt người yêu

c. Việt Bắc

– Anh hùng: cảnh “Việt Bắc ra quân” hùng tráng như đã cầm chắc chiến thắng trong tay: Những đường Việt Bắc của taĐèn pha bật sáng như ngày mai lên.

– Tình nghĩa: Thương nhau chia củ sắn lùiBát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng; Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn

FChuyển ý liên kết

Từ phần I (cảm hứng chung) sang phần II (đặc điểm riêng) của bài làm.

Trên đây là cảm hứng chung về quê hương đất nước qua ba bài thơ. Nhưng tình yêu chân thật và sâu sắc bao giờ cũng có nội dung và sắc thái cụ thể, cá thể. Vì thế tình yêu quê hương đất nước, tùy theo hoàn cảnh lớn của lịch sử dân tộc và hoàn cảnh nhỏ của đời sống mỗi cá nhân, mà có nội dung và sắc thái khác nhau. Điều này không hề phương hại đến cảm hứng chung mà trái lại, càng làm rõ thêm và phong phú thêm cái cảm hứng chung đó. (Liên kết hai phần của bài làm bằng một đoạn văn, trong đó câu đầu là tóm tắt ý phần trên, còn các câu tiếp theo vừa mở ra, lại vừa giải thích ý phần dưới).

Phần II. Đặc điểm riêng của cảm hứng về quê hương đất nước trong từng bài thơ (phần này làm tóm tắt)

Cảm hứng riêng của từng thi sĩ đã dựng lên những gương mặt đất nước không giống nhau:

1. Bên kia sông Đuống

– Đất nước là quê hương Kinh Bắc cổ kính, một vùng quê văn hóa lâu đời với tranh Đông Hồ đậm màu sắc dân tộc, với tiếng chuông chùa ngân nga văng vẳng, với lễ hội tưng bừng rộn rã quanh năm, với những con người không thể nào lẫn được: Những cô hàng xén răng đenCười như mùa thu tỏa nắng… Và hình ảnh cô gái Kinh Bắc duyên dáng trữ tình ấy cứ thấp thoáng ẩn hiện trong suốt bài thơ…

– Là người con của quê hương quan họ, cảm hứng của Hoàng Cầm mang đậm chất Kinh Bắc: thiết tha, day dứt, sâu lắng, ngọt ngào.

2. Việt Bắc

– Đất nước được hội tụ và kết tinh lại trong hình ảnh quê hương cách mạng anh hùng mà tình nghĩa. Bài thơ là khúc hát ân tình của con người kháng chiến với quê hương cách mạng, là nghĩa tình thủy chung sâu nặng giữa người về xuôi và người ở lại trong giờ phút chia tay lịch sử.

– Cảm hứng của Tố Hữu đối với quê hương cách mạng là cảm hứng của người trong cuộc, đã từng sống, hiểu và yêu quê hương cách mạng thiết tha mặn nồng. Đó là tình cảm chính trị nhưng lại được nói lên một cách tự nhiên bằng giọng điệu tâm tình dịu ngọt như lời người yêu trong khúc hát đối đáp giao duyên.

3. Đất nước

– Khác với hai bài trên, Đất nước của Nguyễn Đình Thi là một đất nước tổng hợp – khái quát. Thi sĩ không nói về một quê hương cụ thể nào mà dựng lên một tượng đài Đất nước bằng thơ: một đất nước hiền hòa mà bất khuất, tình nghĩa mà anh hùng – một đất nước trưởng thành, tỏa sáng. Gương mặt đất nước được chiếu rọi bằng những sắc màu mới: Đất nước của nhân dân, đất nước của cách mạng.

– Cảm hứng của Nguyễn Đình Thi mang tính sử thi – tổng hợp – khái quát, bắt nguồn từ truyền thống dân tộc, theo suốt chiều dài của cuộc kháng chiến chống Pháp và đã “chín” sau tám năm trời ấp ủ, nghiền ngẫm, trải nghiệm.

III. Kết bài

– Ba bài thơ là ba gương mặt đẹp về Tổ quốc: một vùng đất Kinh Bắc dân gian – cổ kính, một quê hương cách mạng nghĩa tình – anh hùng, một đất nước trưởng thành – tỏa sáng! Không chỉ giúp ta hiểu rõ thêm đất nước và con người Việt Nam mà nó còn rung lên trong lòng ta những tình cảm nồng nàn tha thiết nhất về quê hương đất nước. Ba bài thơ – như những hành trang tinh thần – sẽ theo ta đi suốt cuộc đời trên những nẻo đường dựng xây đất nước.

Þ Kết luận có đóng, có mở và ít nhiều đã tạo được dư vị, dư vang.

******************************************************

Lớp

Ngày soạn

Ngày giảng

HS vắng

12A

12D

12E

CHUYÊN ĐỀ 3: BAKĨ NĂNG VIẾT BÀI VĂN NGHỊ LUẬN VĂN HỌC

Tiết 22:          

D. CÁC KIỂU BÀI THƯỜNG GẶP TRONG ĐỀ THI THPT QUỐC GIA

Dạng nghị luận văn học trong đề thi Ngữ văn THPT năm 2018 – 2019 sẽ xoay quanh các văn bản văn học mà các em được trong chương trình Ngữ văn 12 và ½ chương trình Ngữ văn 11.

Về các dạng câu hỏi, phần này gồm một câu hỏi ở mức 5,0 điểm, đề thi có thể hỏi nhiều hình thức khác nhau, nhưng có thể tạm chia thành các dạng sau:

I. NGHỊ LUẬN VỀ MỘT ĐOẠN THƠ, BÀI THƠ

1. Sơ đồ tư duy hướng dẫn làm bài

Văn 12 CHUYÊN ĐỀ 3: BAKĨ NĂNG VIẾT BÀI VĂN NGHỊ ...Văn 12 CHUYÊN ĐỀ 3: BAKĨ NĂNG VIẾT BÀI VĂN NGHỊ ...

2. Ví dụ minh họa

Đề bài Phân tích vẻ đẹp của đoạn thơ dưới đây trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu:

Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây, và cỏ rạng

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng

Cho no nê thanh sắc của thời tươi

Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

                                                    (Trích Vội vàng Xuân Diệu, SGK Ngữ văn 11, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017, trang 23)

HƯỚNG DẪN LÀM BÀI

1. Mở bài

Giới thiệu vấn đề nghị luận

+ Xuân Diệu là nhà thơ của tình yêu và tuổi trẻ, là ông hoàng của thi ca tình yêu. Trước Cách mạng, Xuân Diệu nổi tiếng với hai tập thơ: Thơ thơGửi hương cho gió. Chính hai tập thơ ấy đã đưa tên tuổi của Xuân Diệu trở thành nhà thơ mới nhất trong các nhà Thơ mới (Hoài Thanh).

Dẫn ra vấn đề cần nghị luận

+ Bài thơ Vội vàng nằm trong tập Thơ thơ, là bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách thơ của Xuân Diệu. Tác phẩm để lại dấu ấn về nội dung và nghệ thuật đặc sắc mà tiêu biểu là đoạn thơ sau đây:

Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây, và cỏ rạng

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng

Cho no nê thanh sắc của thời tươi

Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

2. Thân bài

2.1. Khái quát chung

Bài thơ Vội vàng nằm trong tập Thơ thơ, xuất bản năm 1938, là bài thơ tiêu biểu của tập thơ nói riêng, của hồn thơ Xuân Diệu nói chung. Cả bài thơ thể hiện một nhân sinh quan mang ý nghĩa nhân bản sâu sắc. Thiên đường là ở ngay trên mặt đất chúng ta với biết bao điều hấp dẫn và quyến rũ. Vì vậy, hãy yêu mến, gắn bó và sống hết mình với cuộc sống thực tại đầy vui tươi này. Nó bộc lộ niềm ham sống, khát sống, tận hưởng đến vô biên và tuyệt đích của thi nhân. Nó làm ta nhớ tới câu thơ trong bài thơ Hư vô của nhà thơ:

Tôi kẻ đưa răng bấu mặt trời

Kẻ đựng trái tim trìu máu đất

Hai tay chín móng bám vào đời.

Ở phần trên của bài thơ, thi sĩ luận giải cho người đọc thấy được tạo hóa có sinh ra con người để mãi mãi hưởng niềm vui ở chốn trần gian. Đời người ngắn ngủi, tuổi xuân có hạn và thời gian trôi đi vĩnh viễn không trở lại. Vì vậy thi nhân “giục giã” chúng ta phải “nhanh lên”, “vội vàng lên” để tận hưởng bữa tiệc của trần gian khi mà mùa chưa ngả chiều hôm, khi mà xuân đang non, xuân chưa già: Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm. Và bởi: Em, em ơi! Tình non sắp già rồi... Có lẽ chính vì vậy mà thi nhân đã khép lại bài thơ bằng một đoạn thơ mang sắc màu ái ân mãnh liệt. Ở đó, ta thấy được sự vồ vập, đắm say rất đỗi Xuân Diệu.

2.2. Phân tích

a. Đoạn thơ mở đầu bằng ba chữ “ta muốn ôm” như phơi bày ra hết sự ham hố và cuồng nhiệt của Xuân Diệu với cuộc sống trần thế.

Trước đó nhà thơ xưng “tôi” với ước muốn táo bạo “tắt nắng”, “buộc gió” nhưng ở đoạn thơ cuối này cái “tôi” ấy đã hòa thành cái “ta” chung để tận hưởng hết những hương sắc của cuộc đời.

Ngay liền đó là câu thơ thể hiện cái tươi non của cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn. “Mơn mởn” là từ láy rất gợi cảm và giàu ý nghĩa diễn tả. Nó gợi cảm sự vật, cây cối đang ở độ non mướt, tươi tốt đầy sức sống khi tháng giêng ngon như một cặp môi gần, khiến cho thi nhân trào dâng bao khao khát:

Ta ôm bó cánh tay ta làm rắn

Làm dây da quấn quýt cả mình xuân

Không muốn đi mãi mãi ở vườn trần

Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất.

(Thanh niên – Xuân Diệu)

b. Và đằng sau khao khát ôm cả sự sống mơn mởn ấy là những câu thơ mạnh bạo, gấp gáp, giục giã tràn đầy nỗi yêu thương:

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây, và cỏ rạng

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng

Cho no nê thanh sắc của thời tươi.

Một đoạn thơ ngắn mà có tới bốn, năm từ “ta muốn” được lặp đi, lặp lại như nhịp điệu hối hả, như hơi thở gấp gáp của thi nhân. Chứng tỏ Xuân Diệu nồng nhiệt rối rít, cuống quýt, như muốn cùng lúc giang tay ôm hết cả vũ trụ, cả cuộc đời, mùa xuân vào lòng mình. Sống như thế với Xuân Diệu mới thực là sống, mới đi đến tận cùng của niềm hạnh phúc được sống.

Điệp ngữ “ta muốn” như ý nghĩa của nó đã nói lên được cái ham muốn khát thèm đến hăm hở, cuồng nhiệt của nhà thơ. Thi nhân như muốn ôm hết vào lòng mình mây đưa và gió lượn, muốn đắm say với cánh bướm tình yêu, muốn gom hết vào lồng ngực trẻ trung ấy một cái hôn nhiều. Muốn thu hết vào hồn nhựa sống dạt dào và non nước, và cây, và cỏ rạng. Để rồi, chàng như con ong bay đi hút mật ngọtcủa đời cho đến say “chếnh choáng” hút cho đã, cho đầy ánh sáng, mới lảo đảo bay đi.

+ Câu thơ: Cho chếnh choáng mùi thơm cho đã đầy ánh sáng/ Cho no nê thanh sắc của thời tươi. Điệp từ “cho” với nhịp độ tăng tiến nhấn mạnh các cấp độ khát vọng hưởng thụ đạt đến độ thỏa thuê, sung mãn, trọn vẹn.

+ Xuân Diệu muốn tận hưởng cuộc sống cho đến “no nê”, “chếnh choáng”, “đã đầy”. Trong niềm cảm hứng ở độ cao nhất, Xuân Diệu nhận ra cuộc đời, mùa xuân như một cái gì quý nhất, trọn vẹn như một trái đời đỏ hồng, chín mọng, thơm ngát, ngọt ngào, xuân hồng, để cho nhà thơ tận hưởng trong niềm khao khát cao độ.

Thơ Xuân Diệu có đặc trưng là sự vồ vập, cuồng nhiệt, mạnh bạo. Mỗi một lần khao khát “ta muốn” thì lại đi liền với một động từ chỉ trạng thái yêu đương mỗi lúc một mạnh mẽ, nồng nàn hơn: ôm sự sống; riết mây đưa, gió lượn; say cánh bướm, tình yêu; thâu cái hôn nhiều, để cuối cùng là một tiếng kêu của sự cuồng nhiệt, đắm say thể hiện niềm yêu đời, khát sống chưa từng có trong thơ ca Việt Nam: Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

+ Đây chính là đỉnh điểm của sự khao khát cháy bỏng của nhà thơ. Dưới ngòi bút của Xuân Diệu và trong ánh mắt “xanh non”, “biếc rờn” của thi sĩ, mùa xuân hiện lên rõ rệt và sống động như có hình có dáng, có hồn có sắc “xuân hồng”.

+ Mùa xuân như đôi môi, như cặp má của một người thiếu nữ trẻ trung, tràn trề nhựa sống và đẹp xinh, trinh nguyên đang rạo rực yêu đương, hay như một quả chín ngọt thơm trong vườn tháng giêng ngon như một cặp môi gần.

Đứng trước cái hấp dẫn của mùa xuân, cuộc sống, thi sĩ hình như không nén nổi lòng yêu đã đi đến một cử chỉ cũng thật đáng yêu: Ta muốn cắn vào ngươi. Có lẽ trong các bài thơ của Xuân Diệu trước Cách mạng thì đây là những vần thơ Xuân Diệu nhất. Vì mỗi câu, mỗi chữ đều mang hơi thở nồng nàn, đắm say, ham sống của một nhà thơ mới nhất trong các nhà Thơ mới (Hoài Thanh).

2.3. Đánh giá chung về nội dung và nghệ thuật

– Về nội dung, đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung đã thể hiện cái tôi cá nhân đầy say mê, rạo rực. Xuân Diệu đã bộc lộ một cái tôi tràn đầy sự thèm khát được sống, được tận hưởng một cách cuồng nhiệt những thanh sắc của cuộc đời. Thi sĩ như muốn giang rộng cả đôi tay, cả lồng ngực của mình để đón nhận mùa xuân của tình yêu, của tuổi trẻ. Nỗi khát thèm ấy là xuất phát từ một quan niệm nhân sinh tiến bộ, tích cực của Xuân Diệu trước cuộc đời:

Mau với chứ, vội vàng lên với chứ

Em, em ơi, tình non đã già rồi.

(Giục giã)

– Về nghệ thuật, thành công của đoạn thơ chính là nhờ vào một số yếu tố nghệ thuật: điệp ngữ “ta muốn” được lặp đi lặp lại nhiều lần; sử dụng nhiều động từ mạnh: “thâu”, “riết”, “say”, “hôn”, “cắn”; giọng điệu say mê; nhịp điệu gấp gáp; chuyển đổi thể thơ linh hoạt; từ ngữ táo bạo thể hiện cái “tôi” trữ tình tràn đầy cảm xúc của tác giả.

3. Kết bài

Khái quát lại vấn đề vừa nghị luận

+ Tóm lại, đoạn thơ ta vừa phân tích ở trên là một đoạn thơ hay nhất trong bài thơ Vội vàng. Đoạn thơ đã giúp ta hình dung được tâm hồn Xuân Diệu, một cái “tôi” yêu đời, giàu xúc cảm, một nhân sinh quan tiến bộ về cuộc đời.

Cảm xúc của bản thân

+ Với những gì thể hiện ở trên, Xuân Diệu rất xứng đáng với danh hiệu nhà thơ mới nhất trong các nhà Thơ mới (Hoài Thanh).

II. NGHỊ LUẬN VỀ MỘT NHÂN VẬT, NHÓM NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM, ĐOẠN TRÍCH VĂN XUÔI

1. Sơ đồ tư duy hướng dẫn làm bài

Văn 12 CHUYÊN ĐỀ 3: BAKĨ NĂNG VIẾT BÀI VĂN NGHỊ ...Văn 12 CHUYÊN ĐỀ 3: BAKĨ NĂNG VIẾT BÀI VĂN NGHỊ ...

2. Ví dụ minh họa

Đề bàiPhân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam. Từ đó nêu những đóng góp mới mẻ của Thạch Lam trong việc thể hiện cảm hứng nhân đạo độc đáo. Nhận xét về một số nét đặc sắc của truyện ngắn này.

HƯỚNG DẪN LÀM BÀI

1. Mở bài

Dẫn dắt vào vấn đề nghị luận

+ Xúc cảm của Thạch Lam thường bắt nguồn và nảy nở từ những chân cảm đối với những con người ở tầng lớp dân nghèo thành thị và thôn quê. Thạch Lam là nhà văn quý mến cuộc sống, trang trọng trước cuộc sống của mọi người xung quanh.

Nêu vấn đề nghị luận

+ Chính tình cảm quý mến và trân trọng ấy đã giúp Thạch Lam cảm nhận sâu sắc những cảm xúc tinh tế của hai đứa trẻ trong truyện ngắn cùng tên. Qua đó, tác giả thể hiện cảm hứng nhân đạo mới mẻ, đặc sắc.

2. Thân bài

2.1. Khái quát chung

Tác phẩm Hai đứa trẻ in trong tập Nắng trong vườn, xuất bản năm 1938. Truyện không có cốt truyện, chỉ là câu chuyện tâm tình. Câu chuyện không phát triển theo lôgic sự kiện mà giống như một bài thơ trữ tình đầy xót thương, gói gọn trong không gian nhỏ hẹp nơi phố huyện nghèo hẻo lánh với những con người nhỏ bé, những cảnh đời đơn điệu hắt hiu.

Toàn bộ thiên truyện là những cảm xúc và tâm trạng của những đứa trẻ nơi phố huyện trong khoảng thời gian từ chiều đến đêm. Ngòi bút của Thạch Lam tỏ ra thật tinh tế trong việc diễn tả những rung động của hai đứa trẻ.

2.2. Diễn biến tâm trạng

a. Tâm trạng của hai đứa trẻ trước cảnh chiều tàn

Câu chuyện mở ra trong một khung cảnh chiều buồn man mác.

Liên và An là những đứa trẻ từng sống ở Hà Nội, nay theo mẹ về vùng quê hẻo lánh. Liên ngồi trong không gian bóng tối để những nỗi buồn chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ:

+ Liên cảm nhận được cái yên lặng của khung cảnh chiều quê quen thuộc. Đó là tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn… gợi lên cái nhịp thời gian đang trôi, gieo vào lòng người một sự nuối tiếc mơ hồ, có cái gì đó quá khó nắm bắt. 

+ Cùng với cảm giác về thời gian còn là âm thanh văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng, tiếng muỗi vo ve, mùi âm ẩm và mùi cát bụi quen thuộc… Đó là những xúc cảm rất quen thuộc, thể hiện sự gắn bó với quê hương.

Cảnh chợ tàn người về hết và tiếng ồn ào cũng mất… càng khiến lòng Liên thấm đẫm nỗi buồn về một cuộc sống xác xơ, tiêu điều, đang đi vào chiều tàn lụi. 

b. Trong bóng tối

– Từ quán hàng chật hẹp nhỏ bé của mình, Liên hướng tầm nhìn ra khung cảnh xung quanh và càng thêm xót thương cho những kiếp người nhỏ bé, mong manh:

+ Thương xót cho những đứa trẻ con nhà nghèo phải nhặt nhạnh tất cả những thứ còn xót lại của một phiên chợ tàn. 

+ Liên chia sẻ với mẹ con chị Tí bằng sự thấu hiểu cuộc sống tẻ nhạt, quanh quẩn của mẹ con chị.

+ Liên còn chia sẻ với sự ế ẩm của gánh phở bác Siêu, gánh đi gánh về gợi lên một nhịp sống buồn tẻ.

+ Thương xót, thậm chí còn sợ hãi trước tiếng cười khanh khách của bà cụ Thi điên. Đó là cảm nhận về sự mỏng mang của kiếp người. 

+ Liên còn cảm nhận được cái tù túng trong cuộc sống của chính bản thân mình: giam hãm trong gian hàng nhỏ, lắm muỗi, chiếc chõng tre sắp gãy, tính nhẩm ngày phiên mà bán cũng chẳng ăn thua gì. ¨Liên cảm nhận được nỗi buồn thấm thía trước cảnh quá quen của những kiếp người nhỏ bé, leo lét trong không gian mênh mông tăm tối của phố huyện. 

Tâm hồn nhỏ bé và nhạy cảm của Liên cũng buồn và nuối tiếc một quá khứ xa xăm những ngày sống ở Hà Nội một Hà Nội sáng rực và huyên náo với những cốc nước xanh đỏ. Đó là một quá vãng xa xôi mà giờ đây trong tâm trí Liên tất cả hiện lên đều không rõ ràng.

Liên có cái nhìn huyền diệu về vũ trụ bao la thăm thẳm và bí ẩn. Đó là một vòm trời ngàn sao lấp lánh, dải Ngân Hà, ông Thần Nông cùng con vịt. Thế nhưng vũ trụ lại quá xa lạ với tâm hồn trẻ thơ, nó làm “mỏi trí nghĩ” của hai chị em. Nên chỉ một lúc sau, hai chị em lại cúi nhìn về mặt đất

Cảnh đồng quê về đêm thật yên tĩnh, lặng lẽ. Tất cả sự dày đặc của bóng tối đang vây quanh đường phố và các con ngõ chứa đầy bóng tối trong khi đó các cửa nhỏ chỉ để hé ra một khe ánh sáng, những vệt sáng của đom đóm, các quầng sáng thân mật xung quanh ngọn đèn. Sự đối lập gay gắt giữa bóng tối và ánh sáng tô đậm sự buồn tẻ, lay lắt của phố huyện – một cuộc sống mù sáng. Điều đó càng khiến tâm hồn Liên thấm thía nỗi buồn. 

c. Trong tâm trạng buồn Liên hoài niệm về quá khứ và khao khát, hi vọng đợi chờ: đó là hi vọng chờ đợi một chuyến tàu đêm đi qua. Diễn biến tâm trạng chờ tàu của hai chị em Liên được Thạch Lam miêu tả khá tinh tế

Liên chờ tàu không phải để bán hàng mà là nhu cầu tinh thần hằng đêm. Bởi vậy, An mặc dù đã buồn ngủ díu cả mắt vẫn cố dặn chị tàu đến chị đánh thức em dậy nhé. Hai chị em Liên chờ đợi tàu trong tâm trạng háo hức, bồi hồi như chờ đợi phút giao thừa thiêng liêng. Liên lặng lẽ chờ đợi với tâm trạng yên tĩnh trong tâm hồn.

Đoàn tàu đến trong sự mong chờ của chị em Liên. Liên và An hướng cả hồn mình vào đoàn tàu khi còn ở xa tiếng còi đã rít lên, và tàu rầm rộ đi tới. Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua, các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường. Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng. Con tàu đã đem đến một thế giới khác đi qua, một thế giới rực rỡ, vui vẻ, huyên náo một thế giới khác hẳn với sự nghèo khổ hàng ngày. 

Đoàn tàu chỉ xuất hiện trong một khoảnh khắc rất ngắn rồi vụt qua đi vào đêm tối. Ta bắt gặp phía sau đoàn tàu một nguồn ánh sáng nhỏ nhoi chỉ trực tan hòa vào bóng tối. An nhận ra chuyến tàu đêm nay không đông như mọi khi, thưa vắng người và hình nhưkém sáng hơn, nhưng Liên vẫn lặng theo mơ tưởng. Đoàn tàu không làm thay đổi cuộc sống nơi phố huyện nhưng sự xuất hiện của nó đủ để lại niềm khao khát cho những con người nơi đây: Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ.

2.3. Những đóng góp mới mẻ của Thạch Lam trong việc thể hiện cảm hứng nhân đạo

– Đọc truyện của Thạch Lam ta thấy nhà văn không đi vào tố cáo sự đàn áp bất công của xã hội, cũng không khiến người đọc phải uất ức, căm giận những cảnh bóc lột, hành hạ của giai cấp thống trị đương thời. Nhưng tác phẩm vẫn chất chứa tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Tư tưởng nhân đạo ấy được toát lên trước hết ở niềm thương xót chân thành của nhà văn trước những cảnh đời đơn điệu, hắt hiu nơi phố huyện nhỏ bé. Nhà văn xót xa bởi họ phải sống một cuộc sống vô nghĩa trong cái ao đời bằng phẳng (chữ dùng của Xuân Diệu), cuộc đời tẻ nhạt như tàu không đổi chuyến. Từ chị em Liên, mẹ con chị Tí đến bà cụ Thi điên, gia đình bác xẩm, bác phở Siêu, những đứa trẻ con nhà nghèo… họ đang tồn tại chứ không phải đang sống:

+ Họ tồn tại trong một nhịp sống uể oải, tù túng, bế tắc với những công việc tẻ nhạt, buồn chán, lặp đi lặp lại “ngày nào cũng vậy”, “chiều nào cũng thế”, “đem ra rồi lại dọn vào”, “gánh đi rồi lại gánh về”…

+ Đọc thấu được nhịp điệu ấy, nhà văn thương họ, thương cho tất cả những ai phải sống một cuộc đời tẻ nhạt, bằng phẳng như Huy Cận nói:

Quanh quẩn mãi giữa vài ba dáng điệu

Tới hay lui vẫn từng ấy mặt người

Vì quá quen nên quá đỗi buồn cười

Môi nhắc lại chỉ có ngần ấy chuyện.

(Quanh quẩn)

 + Thấm đẫm tinh thần xót thương ấy, tác phẩm của Thạch Lam có giá trị nhân đạo mới mẻ, sâu sắc. Đó cũng là điểm gặp gỡ giữa Thạch Lam với các tác giả khác: Xuân Diệu (Tỏa nhị Kiều), Nam Cao (Sống mòn)…

– Không chỉ dừng lại ở sự xót thương, với hình ảnh đoàn tàu đi qua phố huyện, Thạch Lam dường như còn muốn gióng lên trong tâm trí con người một hi vọng mong manh. Ánh sáng của con tàu hay chính là niềm khao khát đổi thay, khao khát cuộc sống có ý nghĩa hơn, dẫu chỉ là trong mong ước của chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ. Đặt trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam những năm 1930 – 1945, những khao khát ấy cũng chính là sự thức tỉnh ý thức cá nhân mới mẻ. Nói lên điều này, tác phẩm của Thạch Lam đã góp phần làm phong phú hơn cho tư tưởng nhân đạo của văn học giai đoạn này.

2.4. Một số nét đặc sắc về nghệ thuật

a. Cách dựng truyện

Truyện ngắn Hai đứa trẻ là một truyện không có truyện, không có những biến cố căng thẳng dồn nén, những xung đột gay gắt, những tình tiết căng thẳng, thời gian ngắn, nhân vật không nhiều. Nhưng câu chuyện vẫn hấp dẫn người đọc bởi chính mạch tâm tình của nó. Cả truyện được phát triển theo những diễn biến tâm trạng tinh tế, phức tạp của các nhân vật. Từ đó khơi ngợi cho người đọc những xúc cảm thân quen, những nỗi niềm về quá vãng… Cách kể chuyện tâm tình là một sáng tạo riêng của Thạch Lam góp phần tạo nên sự độc đáo, hấp dẫn của tác phẩm.

– Xây dựng nhân vật: Nhân vật trong tác phẩm Hai đứa trẻ không được xây dựng là những tính cách điển hình mà được khám phá ở chiều sâu tâm trạng. Nghệ thuật phân tích tâm lí của ngòi bút Thạch Lam tạo nên sự thành công của thiên truyện:

+ Những đoạn văn miêu tả nỗi buồn của Liên trong buổi chiều tà. 

+ Xúc cảm mênh mông trước vũ trụ bao la. Là những đoạn văn rất giàu chất thơ, thể hiện khả năng diễn tả tâm lí nhân vật của Thạch Lam, gợi lên những cảm xúc thân quen trong lòng người.

– Thủ pháp nghệ thuật độc đáo:

+ Đối lập giữa ánh sáng và bóng tối tạo nên những ám ảnh trong lòng người: bóng tối bao trùm toàn tác phẩm. Nó xuất hiện ngay đoạn văn mở đầu, dần lan tỏa khắp thiên truyện: “đường phố… bóng tối”, “tối hết cả… nữa”, “đêm tối… yên lặng”. Thậm chí bóng tối còn “ngập đầy dần” trong mắt Liên. Ngoài ý nghĩa tả thực hình ảnh bóng tối rất ám ảnh. Cảnh phố huyện chìm trong bóng tối được diễn tả chi tiết khiến người đọc dễ liên tưởng tới xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.Nhưng trong bóng tối không phải không có áng sáng:

Ÿ Ánh sáng sang hắt qua khe cửa những hiệu khách.

Ÿ Ánh sáng từ những ngôi sao xa xanh.

Ÿ Ánh sáng từ ngọn đèn chị Tí chỉ là một quầng sáng thân mật.

+ Ánh sáng nhỏ bé, lẻ loi chỉ đủ soi rọi xung quanh. Sự xuất hiện của ánh sáng khiến ta càng thấm thía hơn sự nhỏ bé của kiếp người mong manh. Và người ta càng khát khao biết bao trước ánh sáng rực rỡ, chói lòa – ánh sáng đoàn tàu hay là thứ ánh sáng khác từ cái tăm tối hàng ngày của họ. Sự xuất hiện của ánh sáng – bóng tối chính là sự sáng tạo độc đáo làm bật sức sống của tác phẩm. 

– Ngôn ngữ văn xuôi giàu chất thơ: “chiều chiều rồi… đưa vào”; “một đêm mùa hạ… gió mát”.

3. Kết bài

Khái quát lại vấn đề vừa nghị luận

+ Hai đứa trẻ là một truyện ngắn hay của Thạch Lam. Nó không hấp dẫn người đọc bằng những tính cách sắc nét, tình huống li kì mà nó hấp dẫn người đọc bằng chính vẻ đẹp của cuộc sống đời thường đã được khám phá, cảm nhận bằng chính ngòi bút tinh tế và giọng văn nhẹ nhàng của tác giả.

Cảm xúc của bản thân

+ Hai đứa trẻ là một bài thơ trữ tình đượm buồn thể hiện những giá trị nhân đạo mới mẻ, đặc sắc của Thạch Lam. Qua đó, chúng ta còn thấy được ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ trân trọng trước sự sống.

III. NGHỊ LUẬN VỀ MỘT TÁC PHẨM, ĐOẠN TRÍCH VĂN XUÔI

1. Sơ đồ tư duy hướng dẫn làm bài

Văn 12 CHUYÊN ĐỀ 3: BAKĨ NĂNG VIẾT BÀI VĂN NGHỊ ...Văn 12 CHUYÊN ĐỀ 3: BAKĨ NĂNG VIẾT BÀI VĂN NGHỊ ...

2. Ví dụ minh họa

Đề bàiChữ người tử tù là một khúc tráng ca ca ngợi cái đẹp bất diệt (…) đem đến cho người đọc niềm tin vào sức mạnh cứu vớt con người của cái đẹp.

(Theo Văn xuôi lãng mạn Việt Nam trong nhà trường phổ thông)

Anh (chị) hãy phân tích tác phẩm Chữ người tử tùcủa Nguyễn Tuân để làm rõ nhận định trên.

HƯỚNG DẪN LÀM BÀI

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân và tác phẩm Chữ người tử tù

+ Khi nhắc tới lối văn chương luôn khát khao hướng tới chân – thiện – mĩ, người ta thường nhắc tới Nguyễn Tuân – một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông được đánh giá là một trong những cây bút tài hoa nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại.

+ Trong các sáng tác của Nguyễn Tuân, các nhân vật thường được miêu tả, nhìn nhận như một nghệ sĩvề tài năng xuất chúng, về cái đẹp tinh thần như Chiếc ấm đất, Chén trà sương... và một lần nữa, chúng ta lại bắt gặp chân dung tài hoa trong thiên hạ, đó là Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù.

Giới thiệu ý kiến trong đề bài

+ Chữ người tử tù là ánh sáng lung linh nhất, ngời chói nhất, đa màu sắc nhất để tô điểm cho tuyệt tác Vang bóng một thời đã thể hiện một bút pháp thật sắc sảo với từng câu văn, nét chữ như chất chứa cả đại dương ý nghĩa cuồn cuộn dâng trào của nhà văn Nguyn Tuân.

+ Chữ người tử tù thật sự đi vào lòng người khi Nguyễn Tuân đã biết tạo dựng một nhân vật điển hình, một khúc tráng ca ca ngợi cái đẹp bất diệt (…) đem đến cho người đọc niềm tin vào sức mạnh cứu vớt con người của cái đẹp.

2. Thân bài

2.1Giải thích ý kiến

Tráng ca là bài ca với âm hưởng hùng tráng, mạnh mẽ.

Cái đẹp là phạm trù cơ bản và trung tâm của mĩ học. Cái đẹp có trong thiên nhiên, trong sản phẩm lao động, ở con người và trong nghệ thuật. Nếu nói, những hoạt động của con người đều bị chi phối bởi quy luật cái đẹp thì nghệ thuật là nơi tập trung cao nhất của quy luật đó. Trong nghệ thuật nói chung, trong văn chương nói riêng, cái đẹp của nội dung cũng phải phù hợp với cái đẹp của hình thức.

–Nói cái đẹp trong Chữ người tử tùđem đến cho người đọc niềm tin vào sức mạnh cứu vớt con người của cái đẹp” là nói đến khả năng hướng thiện của cái đẹp; khả năng dẫn dắt, “hướng đạo” và giúp con người có thêm sức mạnh trên con đường mang tên “thiênlương”.

2.2Phân tích tác phẩmChữ người tử tùđể làm rõ nhận định

F Chuyển ý, sơ lược

?Cái đẹp trong Chữ người tử tù là cái đẹp trác tuyệt; đó là cái đẹp của nét chữ, nết người – chủ yếu là ở hình tượng nhân vật Huấn Cao.

a. Cái đẹp toát lên từ nhân vật Huấn Cao

Nguyên mẫu của Huấn Cao là danh sĩ Chu Thần (Cao Bá Quát) người nghệ sĩ – anh hùng trong thực tế lịch sử.

Huấn Cao được xây dựng nên như hình tượng nghệ thuật nơi thể hiện sức mạnhcủa chân thiện  mĩ: (Lưu ý: Trong khi làm bài phần này học sinh phân tích nhân vật Huấn Cao để chứng minh).

+ Huấn Cao mang vẻ đẹp uy nghi của bậc hào kiệt, một đấng anh hùng.

+ Huấn Cao sángngời bởi vẻ đẹp của thiên lương trong sáng.

+ Huấn Cao rực rỡ trong vẻ đẹp của người nghệ sĩ tài hoa, có tài viết thư pháp.

+ Cái tài viết chữ đẹp và rất nhanh.

Thú chơi chữ là thú chơi cao sang dành riêng cho “tao nhân mặc khách”.

Viết chữ đẹp là một hoạt động sáng tạo nghệ thuật, người viết chữ đẹp là một nghệ sĩ.

Chữ của Huấn Cao là vật báu trên đời bởi nó rất đẹp, nó là hiện thân cho cốt cách tài hoa, cho khí phách, cho thiên lương, là hiện thân sinh động đầy đủ cho quan niệm về cái đẹp

b. Cảnh cho chữ

Một cảnh tượng xưa nay chưa từng có:

+ Trong buồng giam chật chội, ẩm ướt, dơ bẩn, cái đẹp được tạo hình do đôi tay người tử tù.

+ Sự thay đổi ngôi bậc lạ lùng: người tù thì ung dung lẫm liệt, ngục quan thì khúm núm, rụt rè.

ÞCái đẹp được sản sinh trên miền đất tội ác nhưng nó không sống chung với cái ác mà có sức mạnh chiến thắng cái ác.

– Cái đẹp là nơi gặp gỡ của những tấm lòng:

+ Cái đẹp đã đem viên quản ngục đến gần người tử tù để giữa họ có một sự tri ngộ sâu sắc  sự đồng điệu của những cái tâm trong sáng.

+ Cái đẹp toát lên từ những nét chữ vuông tươi tắn và từ lời khuyên chân thành cũng như cốt cách của người sáng tạo ra nó đã vạch một con đường hướng đạo cho viên quản ngục.

+ Hành động “cúi đầu bái lạy” của viên quản ngục là sự cúi đầu trước cái đẹp. Đó là cái cúi đầu để người ta “đứng thẳng người” ngẩng cao đầu đi theo “thiên lương”.

ÞCái đẹp là một thứ quyền uy thực sự, thiêng liêng, tuyệt đối. Nó phải đi liền với cái “chân” và cái “thiện”.

c. Ý nghĩa của truyện

Nhà văn đã sử dụng ngòi bút tả thực đầy kịch tính kết hợp việc khắc họa tính cách nhân vật và ngòi bút miêu tả phong cảnh nặng tính hiện thực lẫn lãng mạn.

+ Những chi tiết lãng mạn trong truyện có lẽ là lời nhắn gửi của Nguyễn Tuân. Hãy vững tin vào cái đẹp như Biêlinxki nhận xét về cảm hứng lãng mạn: Cảm hứng lãng mạn là khát vọng đối với tất cả những đẹp đẽ và cao quý. Với bút pháp lãng mạn, nghệ thuật đối lập đòn bẩy và cách xây dựng nhân vật đầy cá tính đi đôi với cách tạo cảnh hấp dẫn được nhà văn Nguyễn Tuân triệt để khai thác trong toàn bộ truyện ngắn Chữ người tử tù.

3. Kết bài

Khái quát lại vấn đề vừa nghị luận

+ Nguyễn Tuân đã thể hiện quan niệm về cuộc sống và những quan điểm nghệ thuật tiến bộ của mình – đó là sự thống nhất giữa cái tâm và cái tài, cái đẹp và cái thiện.

+ Cái tâm, cái tài của người nghệ sĩ luôn đặt ra với muôn đời. Cái đẹp luôn là đích hướng tới của con người.

Cảm xúc của bản thân

+ Nguyễn Tuân ca ngợi cái đẹp, cái cao thượng, cái khí phách đường hoàng của tinh thần bất khuất cùng với lương tâm trong sáng của con người. Những vẻ đẹp ấy xứng đáng là những tia sáng cho muôn đời soi vào mà noi theo.

+ Mọi người chúng ta hãy hướng về tia sáng đó thì nhất định bóng tối sẽ ngả về phía sau.

IV. NGHỊ LUẬN VỀ MỘT TÌNH HUỐNG TRONG TÁC PHẨM, ĐOẠN TRÍCH VĂN XUÔI

1. Sơ đồ tư duy hướng dẫn làm bài

Văn 12 CHUYÊN ĐỀ 3: BAKĨ NĂNG VIẾT BÀI VĂN NGHỊ ...Văn 12 CHUYÊN ĐỀ 3: BAKĨ NĂNG VIẾT BÀI VĂN NGHỊ ...

2. Ví dụ minh họa

Đề bài Phân tích tình huống đợi tàu trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam.

HƯỚNG DẪN LÀM BÀI

1. Mở bài

Giới thiệu khái quát về tác giả Thạch Lam và truyện ngắnHai đứa trẻ

+ Trên văn đàn văn học Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, Thạch Lam chưa được xếp ở vị trí số một nhưng cũng là một tên tuổi rất đáng coi trọng và khẳng định, Thạch Lam tuy có viết truyện dài nhưng sở trường của ông là truyện ngắn, bởi ở đó tài năng nghệ thuật được bộc lộ một cách trọn vẹn, tài hoa. Nguyễn Tuân viết: Nói đến Thạch Lam người ta vẫn nhớ đến truyện ngắn nhiều hơn là truyện dài.

Dẫn ra vấn đề cần nghị luận

+ Những trang văn Thạch Lam như những dòng suối ngọt lành nồng nàn tình yêu thương. Sáng tác của Thạch Lam mang màu sắc hiện thực song lại không để cho người đọc thấy được những mảnh vá trên vai áo của những con người nghèo khổ. Hai đứa trẻ, một truyện ngắn thấm đượm niềm xót thương, một trái tim giàu lòng trắc ẩn của Thạch Lam đã gợi ra tính nhân văn cao cả. Điều đó được thể hiện rõ nét nhất trong tình huống đợi tàu, đây là tình huống độc đáo của tác phẩm.

2. Thân bài

2.1. Khái quát về tình huống trong truyện ngắn

– Truyện ngắn là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ mà nội dung thường chỉ xoay quanh một tình huống truyện chủ chốt nào đó.

– Tình huống truyện (có tính độc đáo, chủ chốt) được diễn đạt bằng nhiều cách nói khác nhau, đó là tình thế xảy ra chuyện; là lát cắt của đời sống, là khoảnh khắc mà trong đó sự sống hiện ra một cách đậm nét, đầy chân thực vàý đồ tư tưởng của tác giả cũng được bộc lộ sắc nét nhất.Như vậy, có thể hiểu tình huống là một sự kiện đặc biệt trong đó chứa đựng một tình thế bất thường của quan hệ đời sống.

– Truyện ngắn được coi là thành công khi xây dựng được tình huống độc đáo, có tính then chốt làm nổi bật tư tưởng, chủ đề của tác phẩm.

– Tiếp nhận truyện ngắn, người đọc nắm được tình huống then chốt là nắm được chìa khóa mở cửa vào thế giới nghệ thuật.

2.2. Xác định tình huống truyện Hai đứa trẻ

Hai đứa trẻ là truyện ngắn mà cốt truyện rất mờ nhạt, thay vào đó là dòng nội tâm, thế giới tâm hồn của nhân vật. Vì vậy hành động, sự việc trong tác phẩm không nhiều. Cũng chính vì vậy mà các chi tiết, sự việc được nhà văn xây dựng trong tác phẩm là hết sức chọn lọc và giàu ý nghĩa.

– Sự việc được tái hiện đậm nét, chiếm dung lượng nhiều nhất trong tác phẩm chính là cuộc đợi tàu của hai đứa trẻ trên phố huyện nghèo. Nó gắn với nội tâm, tình cảm của nhân vật. Đây có thể coi là tình huống chủ chốt của tác phẩm bởi vì đó là một sự kiện đặc biệt trong đó chứa đựng một tình thế bất thường của quan hệ đời sống.

2.3. Phân tích tình huống

a. Hoàn cảnh của tình huống (diện mạo của tình huống)

Thạch Lam đưa người đọc về không gian phố huyện nghèo, buồn tẻ, chiều tàn, ngày tàn, phiên chợ tàn, đồ vật tàn và những kiếp người tàn… đêm tối âm u, vây phủ nhịp sống đơn điệu, quẩn quanh, lặp đi lặp lại.

Giữa không gian ấy, hai đứa trẻ (An và Liên) là hai đứa trẻ ngây thơ, hồn nhiên, giàu mơ ước, thèm được chơi, thèm được ăn những thức quà ngon lạ, thèm một không gian mới lạ, sôi động, rực rỡ. Nhưng chúng chưa được thỏa ước nguyện đó, vì gia cảnh khó khăn, chúng phải lao động kiếm sống, trông hàng giúp mẹ. Đáng thương nhất là chúng luôn nhớ về quá khứ tươi đẹp, hạnh phúc của quá khứ (đối lập với hiện tại nghèo nàn, buồn tẻ), và chúng chỉ có thể ngồi yên trong bóng tối để mơ ước và nghĩ về quá khứ ngày một xa xôi ấy mà thôi.

b. Tính chất của tình huống

– Cuộc đợi tàu lạ lùng:

+ Lạ vì chúng đợi tàu chẳng phải vì một mục đích nào thiết thực (không bán hàng, không đón ai, không có người thân nào của chúng trên đoàn tàu ấy) chúng đợi tàu chỉ để nhìn đoàn tàu.

+ Lạ vì không thiết thực mà ngày nào chúng cũng cố đợi. Chừng như chưa được nhìn đoàn tàu thì chúng chưa được sống trọn vẹn một ngày.

– Cuộc đợi tàu đầy tâm trạng:

+ Đợi tàu là sống lại kỉ niệm: chuyến tàu ở Hà Nội về, nhìn thấy chuyến tàu là hai đứa trẻ được sống lại quá khứ – một quá khứ có thực mà Liên từng được sống một tuổi thơ vui tươi sung sướng. Khi đoàn tàu đi vụt qua, Liên lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo.

+ Đợi tàu là mơ ước một thế giới khác với thực tại: đoàn tàu đi đến đâu, mang theo ánh sáng và âm thanh, lấp lánh và rầm rộ; âm thanh khỏe khoắn sôi động, ánh sáng rực rỡ, mạnh mẽ. Nó là biểu tượng đầy sức sống, đối lập hoàn toàn với phố huyện đầy bóng tối, buồn tẻ. Đợi tàu là niềm khao khát sống, khao khát đổi đời.

– Cuộc đợi tàu đáng thương:

+ Hai đứa trẻ sớm phải nếm trải thiếu thốn, lam lũ, nhọc nhằn. Đoàn tàu trở thành niềm vui duy nhất của chúng. Chúng chưa kịp vui thì đoàn tàu đã mất hút vào bóng tối, mang theo những mơ tưởng của Liên.

+ Đến từ Hà nội, đến từ một tuổi thơ đã mất, đoàn tàu là một tia hồ quang cho lũ trẻ được sống lại những tháng ngày tươi đẹp đã qua trong quá khứ. Đoàn tàu chỉ giúp chúng thỏa mãn thị giác rồi chúng lại bị ném vào thực tại không gian phố huyện tù đọng với ngọn đèn nhỏ leo lét. Ngọn đèn nhỏ bé chập chờn đi vào giấc ngủ của Liên.

2.4. Ý nghĩa của tình huống

– Thông điệp giàu đầy tính nhân văn mà nhà văn muốn gửi gắm: phải thay đổi hoàn cảnh để cứu lấy con người. Hãy cho những đứa trẻ một cuộc sống khác xứng đáng với con người hơn, một cuộc sống mà con người có quyền sống trong hi vọng, chứ không phải đang tàn đi trong vô vọng.

– Tuy nhiên, tấm lòng của tác giả vẫn nặng tình với những số phận nhỏ bé đang âm thầm tồn tại trong “bóng tối” là rất đáng trân trọng. Sự chia sẻ với những khát khao nhỏ bé nhưng tha thiết của những con người nơi phố huyện nghèo ấy của nhà văn thực sự là tiếng nói của một tấm lòng nhân ái trong hoàn cảnh bấy giờ.

3. Kết bài

Khái quát lại vấn đề vừa nghị luận

+ Tình huống đợi tàu trong Hai đứa trẻ của Thạch Lam đã để lại dư vị và dư âm chính vì tấm lòng của người cầm bút biết lắng nghe và trăn trở những tiếng lòng từ những số phận nhỏ bé, những con người ở quanh ta, họ cũng có những tấm lòng thơm thảo và những khát vọng tốt đẹp.

Cảm xúc của bản thân

+ Một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tủy (Sê-khốp) – Thạch Lam đã đem trái tim nhân ái bao la của mình để thắp lên ngọn lửa bất diệt của tình yêu thương con người, làm cho cuộc đời này có nhiều công bằng và yêu thương hơn. Những trang văn giàu chất thơ, dịu dàng như cánh bướm non và vô cùng nhân bản ấy, ai đọc mà không yêu, không nhớ?

V. NGHỊ LUẬN VỀ GIÁ TRỊ NHÂN ĐẠO TRONG ĐOẠN TRÍCH, TÁC PHẨM

1. Sơ đồ tư duy hướng dẫn làm bài

Văn 12 CHUYÊN ĐỀ 3: BAKĨ NĂNG VIẾT BÀI VĂN NGHỊ ...Văn 12 CHUYÊN ĐỀ 3: BAKĨ NĂNG VIẾT BÀI VĂN NGHỊ ...

2. Ví dụ minh họa

Đề bài Phân tích giá trị nhân đạo của truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao.

[external_link offset=2]

HƯỚNG DẪN LÀM BÀI

1. Mở bài

Giới thiệu vấn đề nghị luận

Nền đất ẩm chiếu manh trang giấy trắng

Anh khai sinh bao nhân vật cho đời

Nên anh chết như chuyến đi dài hạn  

Bởi họ thay anh có mặt giữa muôn người.

                                                            (Trần Canh)

Có lẽ nhân vật Chí Phèo đã thay mặt nhà văn hiện hữu trong trái tim của độc giả, làm xao động cả một khoảng tâm tư. Một nhà văn hiện thực với ngòi bút trĩu nặng yêu thương đã để lại cho đời bao tác phẩm ám ảnh lòng người, những nhân vật tưởng chừng như đang tồn tại giữa cuộc đời rất thực. Chí Phèo là một trong những tác phẩm đặc sắc và tiêu biểu cho ngòi bút của Nam Cao.

Dẫn ra vấn đề cần nghị luận

+ Chí Phèo trở thành một kiệt tác chính là nhờ giá trị nhân đạo vừa sâu sắc, vừa độc đáo, mới mẻ của tác phẩm.

2. Thân bài

2.1. Khái quát chung

Là một nhà văn luôn băn khoăn trăn trở về cách sống và cách viết, Nam Cao đã từng tuyên ngôn: Sống đã rồi hãy viết. Một nhà văn muốn viết được nhân đạo trước hết phải sống cho nhân đạo bởi cuộc đời quyết định đến văn chương. Nam Cao luôn nhìn đời bằng đôi mắt của tình thương, đôi mắt của lòng nhân ái. Với cách nhìn đời này, Nam Cao bắt đầu cầm bút sáng tác.

Trước Cách mạng, Nam Cao viết về hai đề tài, đề tài người nông dân và đề tài người trí thức tiểu tư sản. Ở đề tài nông dân hay nhất, tiêu biểu nhất phải kể đến sáng tác đầu tay của Nam Cao, tác phẩm Chí Phèo.  Ban đầu Nam Cao đặt tên cho tác phẩm là Cái lò gạch cũ  nhấn mạnh sự quẩn quanh bế tắc của cuộc đời người nông dân thiện lương trước Cách mạng. Cái lò gạch cũ gắn với cuộc đời Chí Phèo như biểu tượng về sự xuất hiện tất yếu của hiện tượng Chí Phèo.Khi in thành sách thì nhà xuất bản đổi thành Đôi lứa xứng đôi  giật gân, gây tò mò và đánh vào thị hiếu của một lớp công chúng thời bấy giờ.Năm 1941Nam Cao đặt lại tên là Chí Phèo.

2.2. Tóm tắt cốt truyện

– Truyện kể về cuộc đời Chí Phèo, một đứa trẻ bị bỏ rơi vô thừa nhận. Chí Phèo được người làng nhặt về nuôi, đến năm hai mươi tuổi làm canh điền cho nhà bá Kiến. Vì ghen tuông, bá Kiến đã đẩy Chí Phèo vào tù. Sau bảy, tám năm đi ở tù về, từ một người hiền lành, lương thiện, Chí đã bị biến thành một con qu dữ làm tay sai cho bá Kiến gây bao tội ác cho dân làng. Sau khi gặp thị Nở, bản chất lương thiện trong Chí trỗi dậy. Chí mong muốn thị giúp mình trở lại cuộc sống bình thường nhưng không được vì bị thị Nở cự tuyệt. Quá đau đớn, phẫn uất, Chí Phèo đến nhà bá Kiến, giết hắn và tự kết liễu cuộc đời mình.

2.3. Giải thích khái niệm

Giá trị nhân đạo là giá trị cơ bản nhất của tác phẩm văn học chân chính, được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc đối với nỗi khổ đau của con người, sự nâng niu, trân trọng những nét đẹp trong tâm hồn con người; đồng thời tác phẩm cũng đã đứng hẳn về phía những nạn nhân mà lên án các thế lực tàn bạo đã chà đạp lên hạnh phúc, quyền sống và phẩm giá của con người.

2.4. Giá trị nhân đạo trong tác phẩm Chí Phèo

– Trong tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao đã dành cho người nông dân mà ông đã từng gắn bó những tình cảm nhân đạo rất sâu sắc và rộng lớn.

– Tư tưởng nhân đạo của Nam Cao ở đây trước hết được biểu hiện ở chỗ đã khám phá ra nổi khổ bị đày đọa, lăng nhục, bị cự tuyệt quyền làm người của người lao động lương thiện. Nam Cao bày tỏ niềm cảm thông sâu sắc về nỗi khổ đó.

– Qua tấn bi kịch và số phận của Chí Phèo, Nam Cao đã cất lên tiếng kêu cứu thảm thiết và đầy phẫn uất cho người lao động lương thiện. Làm thế nào để cho người lao động lương thiện được sống một cuộc sống xứng đáng trong cái xã hội vùi dập nhân tính ấy, hãy tiêu diệt hoàn cảnh phi nhân tính, hãy làm cho hoàn cảnh trở nên nhân đạo hơn.

– Tư tưởng nhân đạo của Nam Cao trong tác phẩm Chí Phèo còn thể hiện ở thái độ lên án gay gắt những thế lực tàn bạo đã gây nên tấn bi kịch đau thương cho người lao động (bọn thống trị độc ác, nhà tù thực dân, những thành kiến, định kiến vô nhân đạo).

– Tư tưởng nhân đạo sâu sắc ở đây còn thể hiện thái độ trân trọng, nâng niu những nét đẹp người nông dân. Cao hơn nữa, nhà văn còn khám phá ra những phẩm chất lương thiện ở họ ẩn giấu đằng sau những tâm hồn tưởng như u mê cằn cỗi.

2.5. Chứng minh tấm lòng nhân đạo của nhà văn Nam Cao qua một số nhân vật trong tác phẩm

a. Vẻ đẹp ở Chí Phèo

– Là người nông dân lương thiện, ngay từ khi còn là thanh niên đã từng ao ước một gia đình nho nhỏ: Chồng cuốc muốn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm.

– Khỏe mạnh về thể xác (anh canh điền khỏe mạnh).

– Lành mạnh về tâm hồn:

+ Một thằng hiền như đất.

+ Giàu lòng tự trọng: Hồi ấy hắn hai mươi. Hai mươi tuổi, người ta không là đá, nhưng cũng không hoàn toàn là xác thịt. Người takhông thích cái gì người ta khinh. Biết phân biệt giữa tình yêu cao thượng và cảm giác nhục dục thấp hèn: Vả lại bị một con đàn bà gọi đến mà bóp chân! Hắn thấy nhự hơn là thích, huống hồ lại sợ

– Bị nhà tù thực dân biến thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”, nhưng dưới đáy sâu tâm hồn vẫn lấp lánh ánh sáng nhân phẩm.

– Khao khát tình yêu hạnh phúc lứa đôi: Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?... Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vuiLúc tỉnh táo, hắn cười nghe thật hiền

– Khao khát được làm người lương thiện: Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao!

– Có tinh thần phản kháng (khi bị thị Nở cự tuyệt Chí đã đến nhà bá Kiến vung nhát dao bi phẫn căm hờn giết chết hắn ta).

b. Vẻ đẹp nhân vật thị Nở

– Người phụ nữ rất giàu tình thương, đằng sau cái bề ngoài xấu xí và tính khí “dở hơi” còn ẩn chứa một trái tim nhân hậu.

– Rất khao khát tình yêu và hạnh phúc.

– Trong khi cả dân làng Vũ Đại quay lưng lại với Chí thì chính thị Nở lại là người hiểu và yêu thương Chí.

2.6. Đánh giá và nhận xét

– Giá trị nhân đạo của Chí Phèo được nhà văn thể hiện với một bút pháp hết sức độc đáo, khác hẳn với các nhà văn đương thời. Đọc tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố hay Bỉ vỏ của Nguyên Hồng, người đọc dễ dàng cảm nhận được những rung cảm, xót thương của nhà văn trước số phận của các nhân vật. Nhưng với Chí Phèo của Nam Cao thì khác hẳn. Ngòi bút của Nam Cao ở đây thật sắc sảo, lạnh lùng, đối lúc cười cợt, thậm chí có khi phũ phàng đối với nhân vật của mình. Nhưng thật ra đây chỉ là cảm giác bên ngoài. Đọc kĩ lại tác phẩm, ngẫm nghĩ sâu hơn vào cuộc đời, số phận nhân vật của Nam Cao, chúng ta mới thấu hiểu được tấm lòng nhân đạo rất mực sâu sắc và lớn lao của nhà văn.

– Nội dung nhân đạo của tác phẩm Chí Phèo mang tính triết lí cao. Nó đã đặt ra một vấn đề xã hội nóng bỏng, bức xúc: đó là tình trạng nhân tính con người đang bị chà đạp, bị biến chất. Số phận đau khổ của Chí Phèo không phải là cá biệt và sự biến chất, tha hóa của Chí Phèo là do xã hội thực dân phong kiến gây ra. Với tác phẩm Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã gióng lên một tiếng chuông báo động, lưu ý mọi người về cuộc sống của một tầng lớp người cùng khổ nhất trong xã hội.

3. Kết bài

Khái quát lại vấn đề vừa nghị luận

+ Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã từng viết: Sống trên đời này cần có một tấm lòng… (Để gió cuốn đi). Một tấm lòng để gió sẽ cuốn đi, ra sông, ra bể, lên núi… và rồi ở đâu cũng cảm nhận được những gì xuất phát từ trái tim sẽ đi đến trái tim (Khuyết danh). Thật vậy, Nam Cao viết Chí Phèo với tất cả tấm lòng nhân đạo và niềm cảm thương sâu sắc đối với những kiếp người cùng khổ. Và người đọc hôm nay đã hiểu thêm về thân phận con người trong xã hội cũ, từ đó càng thêm trân trọng và bảo vệ những gì hạnh phúc của mình đang có được.

Cảm xúc của bản thân

+ Là một tác phẩm có giá trị nhân đạo sâu sắc, vừa độc đáo mới mẻ. Giờ đây, nền văn học Việt Nam bước sang thiên niên kỉ mới, nhìn lại chặng đường đã qua, Chí Phèo của Nam Cao vẫn được vẫn được xếp hàng là kiệt tác trước hết là ở giá trị nhân đạo sâu sắc, độc đáo đó. Không chỉ thế Chí Phèo mãi mãi là một tác phẩm văn học hiện thực xuất sắc nhất của dòng văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945.

VI. NGHỊ LUẬN VỀ GIÁ TRỊ HIỆN THỰC TRONG TÁC PHẨM, ĐOẠN TRÍCH

1. Sơ đồ tư duy hướng dẫn làm bài

Văn 12 CHUYÊN ĐỀ 3: BAKĨ NĂNG VIẾT BÀI VĂN NGHỊ ...Văn 12 CHUYÊN ĐỀ 3: BAKĨ NĂNG VIẾT BÀI VĂN NGHỊ ...

VII. NGHỊ LUẬN MỘT Ý KIẾN BÀN VỀ VĂN HỌC

1. Sơ đồ tư duy hướng dẫn làm bài

Văn 12 CHUYÊN ĐỀ 3: BAKĨ NĂNG VIẾT BÀI VĂN NGHỊ ...Văn 12 CHUYÊN ĐỀ 3: BAKĨ NĂNG VIẾT BÀI VĂN NGHỊ ...

2. Ví dụ minh họa

Đề bài Khi đánh giá về viên quản ngục trong tác phẩm Chữ người tử tù, nhà văn Nguyễn Tuân có viết:Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc, tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay của viên quan coi ngục này là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạnxô bồ.

(Trích Chữ người tử tù,Sách Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017, trang 110)

Hãy phân tích nhân vật viên quản ngục để làm sáng tỏ nhận định trên.

HƯỚNG DẪN LÀM BÀI

1. Mở bài

Giới thiệu vài nét khái quát về tác giả và tác phẩm

+ Nguyễn Tuân là cây bút xuất sắc của nền văn học Việt Nam cả trước và sau Cách mạng tháng Tám.

+ Chữ người tử tù là một trong những tác phẩm xuất sắc của ông trong tập truyện Vang bóng một thời.

Dẫn ra vấn đề nghị luận                       

+ Bên cạnh nhân vật Huấn Cao một con người toàn thiện hoàn mĩ thì viên quản ngục cũng là một nhân vật có những vẻ đẹp đáng quý nhưng có điều ông đang rơi vào một hoàn cảnh oái ăm.

+ Vì thế, khi đánh giá về viên quản ngục nhà văn Nguyễn Tuân có viết: Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc, tính cách dịu dàng và lòng biết giá người,biết trọng người ngay của viên quan coi ngục này là một âm thanh trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạnxô bồ.

2. Thân bài

2.1. Khái quát chung

– Khi nhắc tới lối văn chương luôn khát khao hướng tới chân – thiện – mĩ, người ta thường nhắc tới Nguyễn Tuân – một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông được đánh giá là một trong những cây bút tài hoa nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại.

– Chữ người tử tù là ánh sáng lung linh nhất, ngời chói nhất, đa màu sắc nhất để tô điểm cho tuyệt tác Vang bóng một thời đã thể hiện một bút pháp thật sắc sảo với từng câu văn, nét chữ như chất chứa cả đại dương ý nghĩa cuồn cuộn dâng trào của nhà văn Nguyn Tuân.

2.2. Giải nghĩa từ ngữ

a. Về nghĩa đen

Thanh âm trong trẻo là thanh âm cao, trong, vút lên trong bản đàn mà người ta dễ nhận biết.

Bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ nghĩa là các âm thanh của bản đàn không hòa điệu vào nhau để tạo nên giá trị của bản đàn.

b. Về nghĩa bóng

Thanh âm trong trẻo là chỉ cái tâm trong sáng, thiên lương của quản ngục.

Bản đàn mà nhạc luật hỗn loạnxô bồ chính là chỉ môi trường sống của viên quản ngục. Đó là nhà tù đầy rẫy tội ác và sự lọc lừa.

2.3. Phân tích nhân vật viên quản ngục để làm sáng tỏ nhận định

a. Giới thiệu nhân vật

– Viên quản ngục là người làm nghề coi ngục, một công cụ của bộ máy thống trị lúc bấy giờ. Môi trường sống của viên quản ngục thường gắn liền với tội ác, gắn liền với sự nhem nhuốc, xấu xa.

– Các viên quản ngục thường hách dịch, độc ác, đánh đập, hành hạ tù nhân. Đây là môi trường xấu dễ làm tâm hồn con người nhơ nhớp, nhem nhuốc.

Þ Nhưng giữa chốn nhà tù, viên quản ngục vẫn giữ được thiên lương trong sáng.

b. Phân tích

b1.Ông là người biết yêu cái đẹp, biết trân trọng, giữ gìn cái đẹp

Ngay từ thời còn trẻ, viên quản ngục đã có thú chơi thanh tao đó. Biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền, từ những ngày nào, cái sở nguyện của viên quan coi ngục là có một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết. Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm.

Trong những ngày Huấn Cao ở trong nhà ngục do mình trông coi, viên quản ngục luôn nhẫn nhục để xin cho bằng được chữ của Huấn Cao. Khi Huấn Cao trả lời câu hỏi của mình với thái độ khinh bạc: Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây, viên quản ngục không nổi trận lôi đình mà lại còn lễ phép lui ra với một câu: “Xin lĩnh ý”.

Mua sắm những vuông lụa trắng để chờ xin chữ của ông Huấn Cao.

Viên quản ngục rất lo lắng. Y chỉ lo mai mốt đây, ông Huấn Cao bị hành hình mà không kịp xin được mấy chữ, thì ân hận suốt đời mất.

Khi có công văn, ngày mai tinh mơ, ông Huấn Cao và các bạn tù của ông phải giải về kinh chịu án tử hình thì viên quản ngục tái nhợt người đi, cho gọi viên thơ lại lên và kể rõ tâm sự của mình cho thầy thơ lại biết.

Sự trân trọng cái đẹp còn thể hiện qua thái độ của viên quản ngục khi nhận chữ của ông Huấn Cao cho. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng.

Þ Chốn lao tù xa lạ với chữ nghĩa thế mà quản ngục lại là người say mê cái đẹp. Quản ngục không sáng tạo ra được cái đẹp nhưng lại biết trân trọng và giữ gìn cái đẹp.

b2. Viên quản ngục là người biết quý trọng người tài

Mới nghe tin trong những người tử tù ngày mai đến ở có Huấn Cao, viên quản ngục đã cho người lo chu đáo chỗ ở cho những người tù.

Viên quản ngục nghĩ về thầy thơ lại: Có lẽ hắn cũng như mình, chọn nhầm nghề mất rồi. Một kẻ biết kính mến khí phách, một kẻ biết tiếc, biết trọng người có tài, hẳn là không phải kẻ xấu hay là người vô tình. Ta muốn biệt đãi ông Huấn Cao. Ta muốn cho ông ta đỡ cơ cực trong những ngày cuối cùng còn lại.

Viên quản ngục cho viên thơ lại đem rượu đến và lễ phép dâng rượu với đồ nhắm cho Huấn Cao. Không những vậy, năm bạn đồng chí của ông Huấn Cao cũng đều được biệt đãi như thế cả.

Khi nhận được công văn ngày mai, vào sáng sớm những người tử tù phải giải về kinh thì viên quản ngục tái nhợt người đi. Thái độ đó thể hiện sự tiếc thương của viên quản ngục đối với người tài đức như Huấn Cao.

Þ Với viên quản ngục, Huấn Cao không phải là một tù nhân dưới quyền cai quản của mình mà là một người tài hoa, đáng kính trọng.

b3.Viên quản ngục là người có thiên lương trong sáng. Thiên lương chính là bản tính tốt của con người do trời phú cho

Sống giữa chốn lao tù, đầy rẫy tội ác mà tâm hồn viên quản ngục không hề bị nhuốm bẩn. Tự mình, ông đã biết mình chọn “nhầm nghề”.

Khi Huấn Cao có lời khuyên: Ở đây lẫn lộn... cái đời lương thiện đi,thì viên quản ngục đã kính cẩn tiếp nhận lời khuyên: Kẻ mê muội này xin bái lĩnh.

b4.Viên quản ngục là người can đảm dám vượt lên hoàn cảnh

Viên quản ngục chịu trách nhiệm về những người tử tù nhưng lại “biệt đãi” những người tử tù. Điều đó, nếu lộ ra, viên quản ngục sẽ bị trị tội rất nặng, quyền lợi, tính mạng của quản ngục sẽ bị đe dọa.

Viên quản ngục vẫn dành cho người tử tù sự quan tâm về vật chất, sự nể trọng về tinh thần.

2.4. Đánh giá nhân vật

– Nhân vật viên quản ngục là người làm trong bộ máy chính quyền lúc bấy giờ nhưng lại mang những phẩm chất tốt đẹp. Sống giữa chốn tội ác nhưng vẫn biết yêu cái đẹp, trân trọng và giữ gìn cái đẹp, biết quý trọng người tài, biết giữ gìn thiên lương trong sáng. Thật đúng là gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

– Một viên quản ngục lại được ngợi ca bởi biết vượt lên hoàn cảnh cá nhân để tìm về với cuộc sống thiên lương.

Þ Qua phân tích, ta thấy viên quản ngục đúng là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ.

3. Kết bài

Khái quát lại vấn đề vừa nghị luận

+ Nguyễn Tuân đã rất thành công khi xây dựng được nhân vật viên quản ngục. Ông đã tạo ra tình huống đặc biệt: để cho viên quản ngục gặp Huấn Cao, để cho viên quản ngục xin chữ Huấn Cao, từ đó bản chất, tính cách của nhân vật này được bộc lộ.

+ Lấy cái nền là nhà tù, Nguyễn Tuân muốn gửi đến độc giả một thông điệp quý giá: Con người phải luôn vượt lên trên hoàn cảnh sống, vượt lên chính mình.

Cảm xúc của bản thân

+ Qua nhân vật viên quản ngục, người đọc rút ra rằng: Muốn yêu cái đẹp, muốn thưởng thức cái đẹp, muốn lưu giữ bảo vệ cái đẹp trước hết phải biết sống đẹp, sống tốt.

VIII. NGHỊ LUẬN BÀN VỀ HAI Ý KIẾN VĂN HỌC

1. Sơ đồ tư duy hướng dẫn làm bài

Văn 12 CHUYÊN ĐỀ 3: BAKĨ NĂNG VIẾT BÀI VĂN NGHỊ ...Văn 12 CHUYÊN ĐỀ 3: BAKĨ NĂNG VIẾT BÀI VĂN NGHỊ ...

2. Ví dụ minh họa

Đề bàiBàn về thơ Tố Hữu, có ý kiến cho rằng: Nghệ thuật trong thơ Thơ Tố Hữu thể hiện tính dân tộc rất đậm đà. Lại có ý kiến cho rằng: Thơ Tố Hữu mang màu sắc trữ tình – chính trị. Hãy phân tích đoạn thơ dưới đây làm sáng tỏ hai ý kiến trên.

Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay

                                                      (Trích Việt Bắc – Tố Hữu, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017, trang 109)

HƯỚNG DẪN LÀM BÀI

1. Mở bài

Giới thiệu vấn đề nghị luận

+ Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lần thứ hai của dân tộc ta thắng lợi được nhân loại tiến bộ vinh danh là “cuộc chiến tranh thần thánh”. Tính thần thánh, huyền thoại ấy được biểu hiện ở đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng suốt, ở lòng yêu nước, lí tưởng độc lập – tự do, ở tinh thần kiên cường, dũng cảm của quân dân ta. Với một lực lượng nhỏ bé, vũ khí thô sơ, chưa có nhiều kinh nghiệm chiến đấu, quân ta phải đối diện trước bọn thực dân Pháp binh hùng, tướng mạnh, vũ khí hiện đại… Vậy mà cuối cùng dân tộc ta đã chiến thắng. Một trong những nguyên nhân thắng lợi là sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân, sức mạnh của tình dân với cách mạng, tình người mặn nồng, tha thiết, yêu thương, gắn bó với nhau.

+ Vẻ đẹp của khối đoàn kết toàn dân, của tình người ấy đã được nhà thơ Tố Hữu ngợi ca bằng những từ ngữ, những câu thơ, những hình tượng thẩm mĩ vô cùng ấn tượng trong đoạn trích phần một của trường ca Việt Bắc. Ngày nay, cuộc chiến đã đi qua, nhưng tình người thì còn lại mãi mãi…

Dẫn ra vấn đề nghị luận

+ Bàn về thơ Tố Hữu, có ý kiến cho rằng: Nghệ thuật trong thơ Thơ Tố Hữu thể hiện tính dân tộc rất đậm đà. Lại có ý kiến cho rằng: Thơ Tố Hữu mang màu sắc trữ tình – chính trị.

+ Chúng ta cùng đi phân tích đoạn thơ dưới đây để làm rõ hai ý kiến trên:

– Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

– Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay

2. Thân bài

2.1. Khái quát chung

− Tố Hữu là nhà thơ lớn, cánh chim đầu đàn của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Sự nghiệp thơ ca của ông gắn liền với sự nghiệp cách mạng, phản ánh những chặng đường đầy gian lao nhưng cũng rất hào hùng. Thơ ông đậm chất trữ tính – chính trị (tức là nói về chính trị nhưng lại rất trữ tình, đi sâu vào hồn người chứ không hề khô khan), giọng thơ tâm tình ngọt ngào mà tha thiết và thơ ông cũng rất đậm đà tính dân tộc.

− Tác phẩm Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là thành tựu xuất sắc của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ ra đời nhân một sự kiện lịch sử tháng 10 – l954, những người cán bộ kháng chiến rời căn cứ Việt Bắc trở về Thủ đô. Từ điểm xuất phát ấy, bài thơ ngược về quá khứ để tưởng nhớ một thời cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh hùng, để nói lên nghĩa tình gắn bó thắm thiết với Việt Bắc, với Đảng và Bác Hồ, với đất nước và nhân dân – tất cả là nguồn sức mạnh tinh thần to lớn để dân tộc ta vững vàng bước tiếp trên con đường cách mạng. Nội dung ấy được thể hiện bằng hình thức đậm tính dân tộc. Bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu.

2.2. Giải thích

a. Tính dân tộc là một phạm trù mĩ học

− Tính dân tộc được biểu hiện ở cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Đề tài là những sự kiện xảy ra trong lịch sử dân tộc, những hiện tượng chính trị của dân tộc; chủ đề ca ngợi lòng yêu nước, khẳng định ý thức, tinh thần dân tộc; nhân vật là những con người điển hình, biểu hiện tập trung tâm lí, tính cách của cả một dân tộc… đó chính là những yếu tố nội dung in đậm tính dân tộc trong một tác phẩm văn học. Tác phẩm ấy còn phải biểu hiện được sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa truyền thống và cách tân, dân tộc và hiện đại khi sử dụng linh hoạt những yếu tố hình thức như thể loại, ngôn ngữ, hình ảnh…

− Biểu hiện của tính dân tộc trong thơ Tố Hữu: đó là việc Tố Hữu vận dụng sáng tạo thể thơ lục bát, lối đối đáp quen thuộc trong ca dao, đại từ nhân xưng “mình – ta”, chất liệu văn hóa dân gian, hình ảnh, từ ngữ đậm đà phong vị dân gian.

b. Màu sắc trữ tình chính trị

− Thơ Tố Hữu đúng là thơ chính trị, bởi đề tài trong thơ Tố Hữu là những vấn đề chính trị, hồn thơ Tố Hữu luôn hướng tới “cái ta” chung với lẽ sống lớn, tình cảm lớn và niềm vui lớn của Đảng, dân tộc, cách mạng.

− Nhưng thơ Tố Hữu cũng rất đỗi trữ tình. Tố Hữu đã đưa thơ trữ tình chính trị lên đến đỉnh cao. Có được điều ấy là nhờ những vấn đề chính trị trong thơ Tố Hữu đã được chuyển hóa thành những vấn đề của tình cảm, cảm xúc rất mực tự nhiên, chân thành, đằm thắm với một giọng thơ ngọt ngào, tâm tình, giọng của tình thương mến.

2.3. Phân tích đoạn thơ làm sáng tỏ hai ý kiến

a. Nghệ thuật trong thơ Thơ Tố Hữu thể hiện tính dân tộc rất đậm đà

− Đoạn thơ thể hiện ở việc vận dụng sáng tạo thể thơ lục bát quen thuộc trong ca dao, dân ca của dân tộc tạo nên nhịp điệu nhịp nhàng, giọng điệu tha thiết:

Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

Tất cả gợi nhớ đến những câu dao, dân ca về tình yêu đôi lứa.

− Lối đối đáp “mình – ta” được vận dụng sáng tạo. Trong ca dao về tình yêu đôi lứa, “mình – ta” thường là chàng trai hoặc cô gái. Còn trong thơ Tố Hữu, “mình – ta” là cán bộ về xuôi và người dân Việt Bắc. Mục đích của việc sử dụng lối đối đáp này nhằm thể hiện tình cảm gắn bó mật thiết giữa người đi (cán bộ) và người ở (người dân Việt Bắc) sau “mười lăm năm” gắn bó.

− Tính dân tộc còn thể hiện ở việc thể hiện đạo lí uống nước nhớ nguồn qua câu thơ:Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.

− Đại từ phiếm chỉ “ai” quen thuộc trong ca dao được sử dụng trong câu: Tiếng ai tha thiết bên cồn gợi bao nỗi niềm xao xuyến, lưu luyến của người đi.

− Hình ảnh ẩn dụ “áo chàm” trong câu thơ: Áo chàm đưa buổi phân li là trang phục quen thuộc của đồng bào Việt Bắc. Chiếc “áo chàm” không chỉ gợi nhớ đồng bào Việt Bắc mà còn gợi nhớ bao nghĩa tình, gắn bó giữa bộ đội và đồng bào nơi đây.

b. Thơ Tố Hữu mang màu sắc trữ tình chính trị

− Đoạn trích trên đây đề cập đến sự kiện lịch sử là cuộc chia tay giữa những người cán bộ kháng chiến với nhân dân Việt Bắc tháng 10 – 1954, cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm hứng ân tình cách mạng, niềm biết ơn sâu sắc với Đảng, Bác Hồ, căn cứ địa cách mạng, nhân dân trong suốt “mười lăm năm” gắn bó.

− Đồng thời, cuộc chia tay trọng đại giữa người đi – kẻ ở diễn ra đầy lưu luyến, bịn rịn sau “mười lăm năm” gắn bó. Cán bộ về xuôi, đồng bào Việt Bắc, kẻ ở, người đi đã xưng hô một cách mộc mạc, giản dị thân thiết: “ta – mình”:

+ Cách xưng hô như vậy thắm thiết yêu thương gợi nhớ những khúc hát ca dao của đôi lứa. Cuộc chia tay lớn mang ý nghĩa lịch sử trọng đại bỗng ùa về trong dáng dấp của cuộc biệt li giữa những đôi lứa yêu nhau.

+ Âm điệu thơ, lời thơ vừa xao xuyến, bâng khuâng vừa da diết, khắc khoải. Bao kỉ niệm, nghĩa tình suốt mười lăm năm gắn bó nén lại trong mấy chữ: “tha thiết”, “mặn nồng”.

− Hàng loạt điệp từ, điệp cấu trúc đan kết vào nhau khiến điệu thơ da diết, quyến luyến, hằn sâu một nỗi nhớ thương. Đặc biệt là từ “nhớ” điệp lại bốn lần. Đáp lại lời nhắn nhủ tha thiết của đồng bào chiến khu là sự im lặng lắng nghe của đồng bào miền xuôi. Im lặng mà cõi lòng bồi hồi xúc động: Tiếng ai tha thiết bên cồn. Người ở lại gợi nhắc kỉ niệm tha thiết, mặn nồng, người ra đi lắng nghe được tiếng ai tha thiết bên cồn. Kẻ ở, người đi thực sự tâm đầu, ý hợp, trái tim có lẽ đã hòa chung một nhịp nên mới có sự hiểu thấu đồng điệu như vậy.

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi. Câu thơ tám chữ ngắt nhịp 4/4 chia hai vế cân xứng. Một vế bộc lộ nội tâm, một vế bộc lộ dáng vẻ. Tất cả cùng chung cảm xúc lưu luyến nhớ thương.

− Hình ảnh đồng bào Việt Bắc trong buổi chia li hiện lên qua cái nhìn của cán bộ kháng chiến thật giản dị, gần gũi với màu “áo chàm” thân thương. Màu “áo chàm” ấy ghi dấu truyền thống nghĩa tình thủy chung của đồng bào chiến khu.

− Câu thơ: Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay gợi cảnh chia tay đầy xúc động. Đồng bào và cán bộ, kẻ ở −người đi, tay trong tay trao hơi ấm, yêu thương, quyến luyến, bịn rịn không nỡ buông rời. Có khác nào nỗi biệt li của những lứa đôi yêu nhau thắm thiết.

2.4. Bình luận hai ý kiến

− Hai ý kiến trên tuy nhận xét về hai phương diện khác nhau: ý kiến thứ nhất nhận xét về nghệ thuật biểu biệu trong thơ Tố Hữu; ý kiến thứ hai nhận xét về phong cách thơ trữ tình – chính trị trong thơ ông. Nhưng cả hai ý kiến lại nhận xét chính xác về nghệ thuật biểu hiện cũng như phong cách thơ của Tố Hữu.

− Hai ý kiến không trái ngược nhau, mà còn bổ sung cho nhau giúp người đọc hiểu hơn về nghệ thuật biểu hiện và phong cách thơ thể hiện trong thơ Tố Hữu cũng như về đoạn trích Việt Bắc.

3. Kết bài

Khái quát lại vấn đề vừa nghị luận

+ Như vậy nhà thơ Tố Hữu đã thể hiện những tâm sự của mình nói riêng và của tất cả những chiến sĩ và nhân dân Việt Bắc nói chung.

+ Mười lăm năm kháng chiến với biết bao nhiêu kỉ niệm và giờ đây khi phải xa nhau thấy lòng mình thật muốn vỡ òa trong nức nở, chân không muốn rời xa. Qua đây ta thấy được tình nghĩa đoàn kết keo sơn của con người Việt Nam mà cụ thể đó là tình quân dân. Để đạt được những thắng lợi trên mặt trận ấy thì không thể nào quên ơn những người dân Việt Bắc được.

Cảm xúc của bản thân

+ Trong câu chuyện với một nhà nghiên cứu văn học người Pháp, Tố Hữu tâm sự rằng: Mình phải lòng đất nước và nhân dân của mình. Nói về đất nước, nói về nhân dân như nói về người mình yêu. Phải chăng, tâm sự đó là những lời mà Tố Hữu nói về Việt Bắc, nói về những vần thơ chan chứa tình quân dân gắn bó, tình yêu nước thiết tha. Những tình cảm thiêng liêng ấy cứ vấn vương mãi trong lòng người đọc.

Lớp

Ngày soạn

Ngày giảng

HS vắng

12A

12D

12E

CHUYÊN ĐỀ 3: BAKĨ NĂNG VIẾT BÀI VĂN NGHỊ LUẬN VĂN HỌC

Tiết 23:        

IX. NGHỊ LUẬN VỀ SO SÁNH ĐOẠN TRÍCH, TÁC PHẨM VĂN HỌC

1. Sơ đồ tư duy hướng dẫn làm bài

Văn 12 CHUYÊN ĐỀ 3: BAKĨ NĂNG VIẾT BÀI VĂN NGHỊ ...Văn 12 CHUYÊN ĐỀ 3: BAKĨ NĂNG VIẾT BÀI VĂN NGHỊ ...

2. Ví dụ minh họa

Đề bàiHình ảnh buổi chiều và cảm xúc của chủ thể trữ tình trong bài Mộ của Hồ Chí Minh và khổ cuối bài Tràng giang của Huy Cận. Từ đó nêu lên vẻ đẹp cổ điển và hiện đại của bài Mộ.  

HƯỚNG DẪN LÀM BÀI

1. Mở bài

Giới thiệu khái quát về hai tác giả

+ Hồ Chí Minh – anh hùng dân tộc – danh nhân văn hóa thế giới, đồng thời là một nhà thơ lớn, một nhà văn với phong cách nghệ thuật độc đáo, vừa đa dạng vừa thống nhất. Văn chính luận của người thường ngắn gọn, súc tích, lập luận sắc sảo, chặt chẽ, bằng chứng giàu thuyết phục và đa dạng về bút pháp. Thơ ca Hồ Chí Minh có sự hòa hợp độc đáo giữa bút pháp cổ điển và hiện đại, giữa chất thép và chất tình, giữa sự trong sáng, giản dị và sự hàm súc sâu sắc. Tiêu biểu cho phong cách thơ Hồ Chí Minh là tập thơ Nhật kí trong tù (1942 – 1943), và nếu phải chọn một viên ngọc trong số vô vàn viên ngọc của tập thơ này, người ta thường nghĩ đến thi phẩm Mộ (Chiều tối).

+ Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, với giọng thơ rất riêng đã khẳng định tên tuổi của mình trong phong trào Thơ mới 1930 – 1945. Trước Cách mạng tháng Tám, thơ ông mang nỗi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên, tạo vật với các tác phẩm tiêu biểu như: Lửa thiêng, Vũ trụ ca, Kinh cầu tự... Nhưng sau Cách mạng tháng Tám, hồn thơ của ông đã trở nên lạc quan, được khơi nguồn từ cuộc sống chiến đấu và xây dựng đất nước của nhân dân lao động: Trời mỗi ngày lại sáng, Đất nở hoa, Bài thơ cuộc đời... Vẻ đẹp thiên nhiên nỗi ưu sầu nhân thế, một nét thơ tiêu biểu của Huy Cận, được thể hiện khá rõ nét qua bài thơ Tràng giang. Đây là một bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám. Bài thơ được trích từ tập Lửa thiêng, được sáng tác khi Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng, nhìn cảnh mênh mông sóng nước, lòng vời vợi buồn, cám cảnh cho kiếp người nhỏ bé, nổi trôi giữa dòng đời vô định. Mang nỗi u buồn hoài như thế nên bài thơ vừa có nét đẹp cổ điển lại vừa đượm nét hiện đại, đem đến sự thích thú, yêu mến cho người đọc.

Dẫn dắt vào vấn đề cần so sánh

Bước tới đèo ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá lá chen hoa.

(Qua Đèo Ngang – Bà Huyện Thanh Quan)

+ Một chút ánh sáng lờ mờ buổi chiều còn vương lại trên nền cảnh của thời gian. Xưa nay cảm xúc về buổi chiều được một số thi nhân thể hiện rất rõ qua bức tranh tâm cảnh. Buổi chiều trên hành trình chuyển lao của Hồ Chí Minh và buổi chiều đứng bên dòng sông Hồng của Huy Cận, giữa hai nhà thơ ở hai hoàn cảnh khác nhau. Nhưng dường như ở giữa họ có sự gặp gỡ về cảm xúc của chủ thể trữ tình.

2. Thân bài

2.1. Cảm nhận chung về bàiMộvà khổ cuối bàiTràng giang

a. Bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh

– Bài thơ được sáng tác theo thể thơ Đường luật thất ngôn tứ tuyệt. Vì thế nó mang đậm phong vị Đường thi ở bút pháp nghệ thuật lấy cảnh để ngụ tình, lấy động tả tĩnh, lấy ít gợi nhiều. Nhưng bài thơ còn được sáng tác bởi người chiến sĩ cộng sản: Hồ Chí Minh, nên bên cạnh phong vị cổ điển nó còn là một bài thơ hiện đại. Chất hiện đại được bộc lộ ở sự vận động của hình tượng thơ, nhất là tấm lòng tư tưởng của thi nhân: yêu thiên nhiên, yêu con người, tinh thần lạc quan của Bác dù ở bất kì hoàn cảnh nào. Đó chính là chất thép lấp lánh trong thơ Hồ Chí Minh.

– Bài thơ được mở đầu bằng một bức tranh phong cảnh thiên nhiên:

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.

Nhà thơ không trực tiếp nói về thời gian nhưng thời gian vẫn hiện về qua cảnh vật: Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ. Chim bay về tổ đúng là dấu hiệu của chiều tối, chiều muộn. Điều này ta thường thấy trong thơ ca như: Chim bay về núi tối rồi (Ca dao); Chim hôm thoi thót về rừng (Truyện Kiều – Nguyễn Du); Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi (Chiều hôm nhớ nhà – Bà Huyện Thanh Quan); Mây vẩn tầng không chim bay đi (Đây mùa thu tới – Xuân Diệu); Chim nghiêng cánh nhỏ:bóng chiều sa (Tràng giang – Huy Cận). Thời gian còn hiện về qua: Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không. Hai chi tiết phác họa mà gợi lên cái hồn của cảnh vật, ngày tàn màn đêm buông xuống, tạo vật dần chuyển sang trạng thái nghỉ ngơi.

– Nếu hai câu thơ đầu cảnh vật hiện ra trong những nét chấm phá phần nào mang tính ước lệ cổ điển với chim muông, mây trời thì đến hai câu sau là cảnh sinh hoạt gần gũi và ấm áp trên mặt đất. Hiện ra ở trung tâm bài thơ lúc này là một thiếu nữ sơn thôn với công việc lao động bên bếp lửa gia đình. Một chất thơ khác, một hơi thở trữ tình khác làm cho vẻ đẹp của buổi chiều thêm hài hòa phong phú, làm cho bài thơ thêm dáng vẻ hiện đại hơn. Đất trời đã vào đêm, bóng tối ken dày muôn nơi. Thời gian được vận động theo cánh chim và làn mây, theo những vòng xoay của cối xay ngô, quay mãi ma bao túc bao túc ma hoàn, và đến khi cối xay ngô dừng lại thì “lô dĩ hồng” – lò than đã rực hồng. Thực ra cái lò lửa ấy không phải đúng lúc đó mới bật sáng lên. Nó vẫn đỏ lên rồi, nhưng phải đến khi ánh trời tắt hẳn, núi rừng mù mịt thì tự nhiên con người ta chỉ nhìn thấy ở nơi đây có ánh lửa. Và vì thế lúc xay ngô xong, trời tối hẳn nên mới nhìn thấy nó rực hồng lên. Hình ảnh cô gái hiện ra bên bếp lò lửa đỏ đến với nhà thơ một cách tự nhiên như thế thôi. Và như thế, trong nguyên tác Bác không dùng chữ “tối” vậy mà ta vẫn nhận ra trời đã tối. Bác dùng cái sáng để nói cái tối. Bếp lửa của cô gái xay ngô đã hồng lên nghĩa là buổi chiều êm ả đã kết thúc để bước vào đêm tối. Nhưng không phải là đêm tối lạnh lẽo âm u như cảm nhận của người xưa mà là một đêm tối ấm áp sáng bừng rực lửa.

b. Khổ cuối bài Tràng giang của Huy Cận

Lửa thiêng (1940) của Huy Cận là một tập thơ sáng giá trong phong trào Thơ mới Việt Nam (1930 – 1945). Phong cảnh trong Lửa thiêng, nhất là trong các bài thơ: Vạn lí tình, Tràng giang, Đẹp xưa... đều đượm một nỗi buồn man mác:

Tới ngã ba sông nước bốn bề

 Nửa chiều gà lạ gáy trên đê.

Đó là con sông Thâm bên núi Mồng Gà thuộc Hương Sơn (Hà Tĩnh), quê hương thân yêu của nhà thơ. Trong Tràng giang, một nỗi buồn như dồn nén thấm sâu vào cảnh vật và lan xa muôn vàn con sóng, nhất là bốn câu kết của bài thơ:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Bao trùm cả bài thơ là một không gian nghệ thuật bao la, thật đẹp và cũng thật buồn. Có sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp. Có lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu. Có lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng... Và trước mắt nhà thơ là một khung cảnh bao la, vắng vẻ: Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

– Khổ cuối nói đến hoàng hôn trên tràng giang. Một cái nhìn xa vời vợi. Trước mắt nhà thơ là những núi mây nhô lên, “đùn” lên “lớp lớp” màu trắng bạc. Cảnh sắc thiên nhiên rất tráng lệ. Bầu trời chắc là xanh thẳm, hoặc tím thẫm trong khoảnh khắc hoàng hôn nên màu mây ở cuối chân trời mới ánh lên màu bạc ấy. Giữa cái bao la mênh mộng bỗng xuất hiện một cánh chim nhỏ nhoi. Cánh chim đang chở nặng bóng chiều, bay vội vã. Trên cái nền tím sẫm, nhạt nhòa của bóng chiều hôm, hiện lên những núi bạc mây cao và một con chim lạc đàn nghiêng cánh nhỏ. Hai nét vẽ ấy tượng trưng cho những cảnh chiều hôm trong tâm tưởng người lữ thứ:

Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi

Dặm liễu sương sa khách bước dồn.

(Chiều hôm nhớ nhà – Bà Huyện Thanh Quan)

Chim hôm thoi thót về rừng

Đóa trà mi đã ngậm trăng nửa vành.

(Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Nghệ thuật tương phản giữa cánh chim nghiêng nhỏ bé và mờ dần với núi mây bạc hùng vĩ, với trời đất bao la đã làm cho cảnh đất trời và tràng giang thêm mênh mông hơn, xa vắng hơn, và cũng buồn hơn.

– Bốn câu kết mang ý vị cổ điển rất đậm đà. Ý vị ấy, màu sắc ấy được thể hiện ở hình ảnh nhà thơ một mình đứng lẻ loi giữa vũ trụ bao la, lặng lẽ cảm nhận cái vô cùng của không gian, thời gian đối với kiếp người hữu hạn. Một cánh chim, một núi mây bạc... cũng dẫn hồn ta đi về mọi nẻo, đến với mọi phía chân trời:

Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm

Mặt đất mây đùn cửa ải xa.

(Thu hứng – Đỗ Phủ)

Ý vị cổ điển ấy lại được tô đậm bằng một tứ thơ Đường:

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Hơn mười hai thế kỉ trước, trong bài thơ Hoàng hạc lâu, Thôi Hiệu đã viết:

Quê hương khuất bóng hoàng hôn

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.

(Tản Đà dịch)

Huy Cận nhìn lên cao, rồi lại nhìn về phía xa theo tràng giang vời con nước, ở trên nhà thơ đã phủ định:

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

thì ở đây, ông lại nói: Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Nỗi buồn cô đơn và nỗi nhớ quê tràn ngập tâm hồn khách tha hương trong buổi hoàng hôn, bên dòng sông đang mải miết trôi về tận phương nào xa xôi.

– Thơ Huy Cận hàm súc, cổ điển và thấm đẫm màu sắc triết lí suy tưởng. Một hồn thơ bơ vơ, sầu não ấy luôn hướng tới sự giao hòa giữa con người và tạo vật trên một không gian mênh mông, vắng lặng. Cảnh sắc trong Tràng giang đẹp mà buồn. Tình quê, lòng quê trong bốn câu kết thật vô cùng sâu sắc, thắm thiết. Đó là những vần thơ mãi mãi vương vấn lòng người trong mọi thời gian và không gian.

[external_footer]
See more articles in the category: Nghị luận
READ  Nghị luận bài Câu cá mùa thu | Nghị luận bài Thu điếu | Văn mẫu 11

Leave a Reply