Tiểu luận Luật dân sự- Giao kết hợp đồng dân sự – Traloitructuyen

Or you want a quick look: MỞ ĐẦU

Traloitructuyen.com cũng giúp giải đáp những vấn đề sau đây:

  • Các đề tài tiểu luận về luật dân sự
  • Cách làm bài tiểu luận môn luật dân sự
  • Tiểu luận về luật dân sự 2015
  • Tiểu luận luật dân sự vệ quyền thừa kế
  • Lợi mở đầu Tiểu luận ngành luật dân sự
  • De tài khóa luận luật dân sự
  • Bài tiểu luận về luật hợp đồng dân sự
  • Tiểu luận môn luật dân sự 2
 
 
 
 
 
 
 
Tiểu luận luật dân sự- Giao kết hợp đồng dân sự

Tiểu luận luật dân sự- Giao kết hợp đồng dân sự

 

MỞ ĐẦU

Giao kết HĐDS là việc các bên bày tỏ ý chí với nhau theo những nguyên tắc và trình tự nhất định để qua đó xác lập với nhau các quyền và nghĩa vụ dân sự. Vậy, giao kết HĐDS được pháp luật quy định như thế nào? Trình tự giao kết HĐDS phải thực hiện như thế nào cho đúng với quy định của pháp luật? Vì muốn tìm hiểu những quy định của pháp luật về giao kết HĐDS nên em đã lựa chọn đề tái: “Giao kết hợp đồng dân sự theo quy định pháp luật hiện hành. Một số vấn đề lí luận và thực tiễn” để nghiên cứu làm bài tập học kì của mình.

NỘI DUNG:

I. GIAO KẾT HỢP ĐỒNG DÂN SỰ - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN:

1. Khái quát chung về giao kết HĐDS:

1.1. Khái niệm giao kết HĐDS:

Giao kết HĐDS có thể hiểu là quá trình bày tỏ, thống nhất ý chí giữa các bên theo hình thức, nội dung, nguyên tắc, trình tự nhất định được pháp luật thừa nhận nhằm xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự đối với nhau.

1.2. Bản chất của giao kết HĐDS:

Bản chất của HĐDS là sự thỏa thuận, trong đó các bên thể hiện sự bày tỏ và thống nhất ý chí nhằm hướng tới những lợi ích nhất định. Việc giao kết HĐDS cũng được xác lập trên cơ sở của sự thỏa thuận thống nhất ý chí giữa các bên. Quá trình giao kết HĐDS diễn ra với hai yếu tố: sự bày tỏ ý chí (đề nghi giao kết) và sự chấp nhận ý chí (chấp nhận đề nghị giao kết HĐDS), nhưng thực tế không phải là HĐDS nào cũng xác định được rõ ràng hai yếu tố này. Quá tình này có thể diễn ra nhanh chóng hay kéo dài, đơn giản hay phức tạp, diễn ra đồng thời hay tiến triển ở nhiều giai đoạn khác nhau… (phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: ý chí các bên, vào nội dung, hình thức biểu hiện của hợp đồng…). Các bên có thể sử dụng phương thức giao kết trực tiếp (gặp nhau trao đổi, đàm phán, thương lượng, kí kết…) hoặc phương thức giao kết gián tiếp (thông qua công văn, đơn chào hàng, các phương tiện điện tử…) để thỏa thuận, thống nhất ý chí với toàn bộ nội dung của hợp đồng.

HĐDS có nhiều loại nhưng kết quả cuối cùng của quá trình giao kết HĐDS nói chung đều là thể hiện sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của các bên để làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự trong quan hệ hợp đồng đó (hình thành HĐDS). Do đó, bản chất của giao kết HĐDS là quá tình bày tỏ ý chí của các chủ thể tham gia hợp đồng nhằm thỏa thuận, thống nhất toàn bộ nội dung, hình thức HĐDS theo quy định của pháp luật.

1.3. Nguyên tắc giao kết hợp đồng dân sự:

Theo quy định tại Điều 389 BLDS 2005, khi giao kết hợp đồng các chủ thể phải tuân theo các nguyên tắc sau:

1.3.1. Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội:

Nhằm tạo điều kiện cho các chủ thể thỏa mãn được các nhu cầu về đời sống vật chất cũng như tinh thần, BLDS cho phép mọi chủ thể được quyền “tự do giao kết hợp đồng”. Theo nguyên tắc này, mọi cá nhân, tổ chức khi có đủ tư cách chủ thể đều có quyền tham gia giao kết bất kì một HĐDS nào, nếu họ muốn, mà không ai có quyền ngăn cản. Bằng ý chí tự do của mình, các chủ thể có quyền giao kết những HĐDS đã được pháp luật quy định cụ thề cũng như những HĐDS khác dù rằng pháp luật chưa quy định. Tuy nhiên, sự tự do ý chí đó phải nằm trong một khuôn khổ nhất định. Bên cạnh việc chú ý đến quyền lợi của mình, các chủ thể phải hướng tới việc bảo đảm quyền lợi của những người khác cũng như lợi ích của toàn xã hội. Vì vậy, tự do của mỗi chủ thể “không trái pháp luật, đạo đức xã hội”. Nằm trong mối liên hệ tương ứng giữa quyền và nghĩa vụ, mỗi một chủ thể vừa có quyền tự do “tự do giao kết hợp đồng” vừa có nghĩa vụ tôn trọng pháp luật và đạo đức xã hội. Lợi ích của cộng đồng (được quy định bằng pháp luật) và đạo đức xã hội được coi là “sự giới hạn” ý chí tự do của mỗi một chủ thể trong việc giao kết HĐDS nói riêng cũng như đối với mọi hành vi nói chung của họ.

1.3.2.  Các bên tự nguyện và bình đẳng trong giao kết hợp đồng:

Nguyên tắc này thể hiện bản chất của quan hệ dân sự. Quy luật giá trị đòi hỏi các bên khi thiết lập các quan hệ trao đổi phải bình đẳng với nhau. Không một ai được lấy lí do khác về thành phần xã hội, dân tộc, giới tính, tôn giáo, hoàn cảnh kinh tế … để làm biến dạng các quan hệ dân sự. Mặt khác, chỉ khi nào các bên bình đẳng với nhau về mọi phương diện trong giao kết hợp đồng, thì ý chí tự nguyện của các bên mới thật sự được bảo đảm. Vì vậy, theo nguyên tắc trên, những hợp đồng được giao kết thiếu bình đẳng và không có sự tự nguyện của các bên sẽ không được pháp luật thừa nhận. Tuy nhiên, đánh giá một hợp đồng có phảo là ý chí tự nguyện hay không là một công việc tương đối phức tạp và khó khăn trong thực tế.

HĐDS là sự thỏa thuận thống nhất ý chí của các chủ thể tham gia. Vì thế, muốn xem xét các chủ thể có tự nguyện trong giao kết hợp đồng hay không, cần phải dựa vào sự thống nhất biện chứng giữa hai phạm trù: Ý chí và sự bày tỏ ý chí. Như chúng ta đã biết, ý chí là mong muốn chủ quan bên trong của mỗi một chủ thể. Nó phải được bày tỏ ra bên ngoài thông qua một hình thức nhất định. Ý chí và sự bày tỏ ý chí là hai mặt của một vấn đề, chúng luôn có quan hệ mật thiết, gắn bó khăng khít với nhau.

Ý chí tự nguyện chính là sự thống nhất giữa ý muốn chủ quan bên trong và sự bày tỏ ý chí đó ra bên ngoài. Vì vậy, để xác định một HĐDS có tuân theo nguyên tắc tự nguyện hay không cần phải dựa vào sự thống nhất ý chí của người giao kết hợp đồng và sự thể hiện (bày tỏ) ý chí đó trong nội dung của hợp đồng mà người đó đã giao kết. Chỉ khi nào hợp đồng là hình thức phản ánh một cách khách quan, trung thực những mong muốn bên trong của các bên giao kết, thì việc giao kết đó mới được coi là tự nguyện.

Như vậy, tất cả các trường hợp được giao kết do bị nhầm lẫn, do bị lừa dối hoặc đe dọa đều là nhứng hợp đồng không đáp ứng được nguyên tắc tự nguyện khi giao kết. Và vì thế, nó sẽ bị coi là vô hiệu (xem thêm Điều 131, Điều 132 BLDS).

2. Trình tự giao kết HĐDS:

2.1. Đề nghị giao kết hợp đồng:

2.1.1. Khái niệm, hình thức, nội dung đề nghị giao kết HĐDS:

+ Khái niệm:

BLDS 2005 quy định: “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định cụ thể” (khoản 1 Điều 390). Như vậy, BLDS 2005 Việt Nam sử dụng thuật ngữ “đề nghị giao kết hợp đồng” mà không sử dụng thuật ngữ “chào hàng” hay “lời đề nghị”  như pháp luật của các nước cũng như Công ước của Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua bán quốc tế (Công ước Viên 1980).

+ Hình thức đề nghị giao kết HĐDS:

BLDS 2005 có quy định về hình thức HĐDS (có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể), nhưng không có quy định cụ thể về hình thức của đề nghị giao kết HĐDS. Tuy nhiên, trong các văn bản pháp luật có liên quan và thực tế cho thấy việc đề nghị giao kết HĐDS được thực hiện với nhiều hình thức khác nhau và có thể thể hiện dưới bất kì hình thức nào. Bên đề nghị có thể trực tiếp (đối mặt) với bên được đề nghị để trao đổi, thỏa thuận hoặc có thể thông qua điện thoại, bằng việc chuyển công văn, giấy tờ qua đường bưu điện, thông qua phương tiện điện tử hoặc các phương tiện khác mà bên giao kết hợp đồng không có mặt tại cùng một địa điểm để kí kết hợp đồng (bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể…) để biểu lộ ý chí của mình muốn tham gia giao kết với chủ thể nhất định một HĐ DS.

+ Nội dung đề nghị giao kết HĐDS: Bên đề nghị giao kết HĐDS phải đưa ra nội dung đề nghi giao kết với những điều khoản của hợp đồng một cách cụ thể và rõ ràng để bên kia có thể hình dung ra được HĐDS sẽ được giao kết với nội dung như thế nào, có thể tham gia giao kết HĐDS đó được hay không ?

BLDS 2005 chưa có quy định cụ thể nội dung của đề nghị giao kết HĐDS và Luật Thương mại năm 2005 cũng không quy định nội dung của “chào hàng là một đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa”. Thực tế cho thấy, đề nghị giao kết hợp đồng và một số hành vi như: lời mới làm chào hàng, báo giá, quảng cáo, trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ… rất khó phân biệt mà hậu quả pháp lý của đề nghị giao kết HĐDS có ý nghĩa rất quan trọng đối với bên đề nghị giao kết nên rất cần phải xác định nội dung của đề nghị giao kết HĐDS. Theo em, nội dung của đề nghị giao kết HĐDS cần có các yếu tố chính sau:

Thứ nhất, đề nghị giao kết HĐDS phải thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng của bên đề nghị giao kết HĐDS. Ví dụ: Bên đề nghị giao kết phải thể hiện rõ nội dung mình muốn bán nhà ở (giao kết hợp đồng mua bán nhà nở) hoặc muốn cho thuê nhà ở (hợp đồng thuê nhà ở) với chủ thể khác…

Thứ hai, đề nghị giao kết hợp đồng phải có các nội dung chủ yếu của loại HĐ DS mà các bên muốn xác lập: Đề nghị giao kết HĐDS do bên đề nghị chủ động đưa ra nội dung (chưa phải là HĐDS), nhưng hỏi phải thể hiện rõ những nội dung chủ yếu của HĐDS mà bên đề nghị dự kiến sẽ giao kết để các chủ thể khác biết được và tham gia giao kết hợp đồng (đề nghị giao kết hợp đồng chứa các nội dung của hợp đồng tương lai). Yêu cầu này có nghĩa là đề nghị giao kết HĐDS  phải có đầy đủ nội dung chủ yếu của loại HĐDS để cho phép bên nhận được đề nghị biết được rằng, để giao kết hợp đồng chỉ cần họ thể hiện sự đồng ý của mình với đề nghị giao kết thì HĐDS được giao kết.

Nội dung chủ yếu của HĐDS là những điều khoản mà không thể thiếu được đối với từng loại hợp đồng; Nếu không thỏa thuận được những điều khoản đó thì HĐDS không thể giao kết được. Tuy nhiên, BLDS 2005 hiện nay không quy định về nội dung “chủ yếu” của HĐDS mà chỉ quy định: Tùy theo từng loại hợp đồng, các bên có thể thỏa thuận về những nội dung sau đây: Đối tượng của hợp đồng là tài sản phải giao, công việc phải làm hoặc không được làm; Số lượng, chất lượng; Giá, phương thức thanh toán; Thời hạn, địa điểm, phương  thức thực hiện hợp đồng; Quyền, nghĩa vụ của các bên; Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng; Phạt vi phạm hợp đồng; Các nội dung khác (Điều 402). Quy định này chỉ mang tính chất liệt kê các nội dung thường gặp trong hợp đồng chứ không phải quy định về nội dung chủ yếu của hợp đồng (Nội dung chủ yếu là những nội dung mà thiếu nó hợp đồng không thể được coi là giao kết). Ví dụ: Các quy định về thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện … nếu không có thỏa thuận thì cũng đã có quy định của pháp luật. Như vậy, việc xác định nội dung chủ yếu của HĐDS cũng như nội dung của đề nghị giao kết HĐDS trên thực tế cũng rất khó khăn và phức tạp.

[external_link offset=1]

Thứ ba, đề nghị giao kết HĐDS phải hướng tới một hoặc một vài chủ thể khác đã được xác định cụ thể: Đây là một nội dung quan trọng giúp phân biệt đề nghị giao kết HĐDS với một số hành vi tương tự như: Lời mời làm chào hàng, báo giá, quảng cáo, trưng bày giới thiệu hàng hóa, dịch vụ … Trong nội dung đề nghị giao kết HĐDS phải thể hiện rõ ý định của bên đề nghị giao kết với bên đã được xác định về việc giao kết một HĐDS cụ thể và phải được “gửi” cho bên được đề nghị biết về đề nghị giao kết; Bên đề nghị giao kết phải chịu sự ràng buộc về đề nghị này đối với bên đã được xác định cụ thể trong giao kết.

Thứ tư, đề nghị giao kết HĐDS có thể xác định thời hạn trả lời chấp nhận đề nghị giao kết: Nghiên cứu khoản 2 Điều 390 BLDS 2005 có thể nhận thấy pháp luật Việt Nam có quy định về trường hợp đề nghị giao kết có nêu rõ thời hạn trả lời và như vậy cũng sẽ công nhận có trường hợp đề nghị giao kết không nêu rõ thời hạn trả lời trên thực tế. Tuy nhiên, BLDS 2005 không có quy định bắt buộc phải nêu rõ thời hạn trả lời chấp nhận đề nghị giao kết trong đề nghị giao kết HĐDS, nhưng cũng không quy định cụ thể cách thức xác định thời hạn trả lời chấp nhận giao kết HĐDS trong trường hợp đề nghị giao kết HĐDS không nêu rõ thời hạn trả lời chấp nhận giao kết và giá trị pháp lý của đề nghi giao kết này. Đây là vấn đề pháp sinh tranh chấp vvà rất khó giải quyết trên thực tế.

2.1.2. Thời điểm đề nghi giao kết HĐDS có hiệu lực:

Việc xác định đề nghị giao kết HĐDS có hiệu lực là quan trọng vì đó là thời điểm mà bên nhận đề nghị giao kết có thể chấp nhận lời đề nghị, do vạy ràng buộc bên đưa ra đề nghị về hợp đồng sẽ quyết định giao kết.

Theo pháp luật dân sự thì đề nghị giao kết HĐDS chỉ phát sinh hiẹu lực khi nó được thông báo (gửi) cho bên được đề nghị biết. BLDS 2005 bổ sung Điều 391 quy định về thời điểm đề nghị giao kết HĐDS có hiệu lực, cụ thể:

“1. Thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực được xác định như sau:

a) Do bên đề nghị ấn định;

b) Nếu bên đề nghị không ấn định thì đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực kể từ khi bên được đề nghị nhận được đề nghị đó.   ....”

Như vậy, pháp luật dân sự Việt Nam quy định thời điểm đề nghị giao kết HĐDS có hiệu lực theo hướng để cho bên đề nghị giao kết chủ động ấn định thời điểm trong đề nghị giao kết HĐDS, nhưng đồng thời cũng quy định cách xác định thời điểm trong trường hợp bên đề nghị giao kết không ấn định thời điểm đề nghị giao kết HĐDS có hiệu lực (có hiệu lực từ khi bên được đề nghị nhận được đề nghị). Quy định này bảo đảm phù hợp với quan hệ HĐDS vốn rất đa dạng, phong phú trên thực tế.

2.1.3. Thay đổi, rút lại, hủy bỏ và sửa đổi đề nghị giao kết của HĐDS:

BLDS 2005 quy định các trường hợp thay đổi, rút lại đề nghị giao kết HĐDS như sau:

+ Bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể thay đổi, rút lại đề nghị giao keét hợp đồng trong các trường hợp sau đây: Nếu bên được đề nghị được thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị trước hoặc cùng với thời điểm nhận được đề nghị; Điều kiện thay đổi hoặc rút lại đề nghị phát sinh trong trường hợp bên đề nghị có nên rõ về việc được thay đổi hoặc rút lại đề nghị khi điều kiện đó phát sinh. Khi bên đề nghị thay đổi nội dung của đề nghị thì đề nghị đó được coi là đề nghị mới (Điều 392).

+ Trong trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng thực hiện quyền hủy bỏ đề nghị do đã nêu rõ quyền này tỏng đề nghị thì phải thông báo cho bên được đề nghị và thông báo này chỉ có hiệu lực khi bên được đề nghị nhận đước thông báo trước khi bên được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng (Điều 393).

+ Khi bên được đề nghị đã chấp nhận giao kết hợp đồng, nhưng có điều kiện hoặc sửa đổi đề nghị thì coi như người này đã đưa ra đề nghị mới (Điều 395). Bộ luật Dân sự không phân biệt nội dung điều kiện hoặc sửa đổi đề nghị giao kết là nội dung chủ yếu hay không chủ yếu nên bất kì điều kiện hoặc sửa đổi nào từ phía bên được đề nghị giao kết hợp đồng đều được coi là đề nghị mới.

2.1.4. Chấm dứt đề nghi giao kết HĐDS:

Điều 394 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định khá cụ thể các trường hợp chấm dứt đề nghị giao kết HĐDS dựa trên sự thể hiện ý chí của các bên trong quá trình giao kết hợp đồng, đề nghi giao kết hợp đồng chấm dứt trong các trường hợp sau đây:

“1. Bên nhận được đề nghị trả lời không chấp nhận;

2. Hết thời hạn trả lời chấp nhận;

3. Khi thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị có hiệu lực;

4. Khi thông báo về việc huỷ bỏ đề nghị có hiệu lực;

5. Theo thoả thuận của bên đề nghị và bên nhận được đề nghị trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời”.

2.2. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng:

2.2.1. Khái niệm, hình thức, nội dung chấp nhận đề nghị giao kết:

+ Khái niệm: BLDS 2005 có quy định: “Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị đối với bên đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị” (Điều 396). Như vậy, chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng dân sự là sự trả lời đồng ý của bên được đề nghị giao kết hợp đồng với toàn bộ nội dung được nêu trong đề nghị giao kết của bên đề nghị giao kết HĐDS.

+ Hình thức chấp nhận đề nghị giao kết HĐDS: Trên cơ sở thừa kế và phát triển các quy định tại khoản 3 Điều 11 Pháp lệnh Hợp đồng dân sự năm 1991 và khoản 2 Điều 403 BLDS 1995, BLDS 2005 có quy định: “Hợp đồng dân sự cũng được xem như được giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận được đề nghị vẫn im lặng, nếu có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết”(khoản 2 Điều 404). Như vậy, “im lặng” cũng có thể được coi là hình thức chấp nhận đề nghị giao kết HĐDS nếu các bên có thỏa thuận hoặc bên đề nghị giao kết có nêu rõ trong đề nghị giao kết HĐDS.

+ Nội dung chấp nhận đề nghị giao kết HĐDS: BLDS 2005 không quy định về nội dung chấp nhận đề nghị giao kết HĐDS, nhưng trên tinh thần nội dung Điều 396 quy định về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, theo em, nội dung chấp nhận đề nghị giao kết HĐDS thông thường phải đảm bảo hai yếu tố sau:

Thứ nhất, đồng ý (chấp nhận) toàn bộ nội dung như đã nêu trong đề nghị giao kết HĐDS tức là chấp nhận đầy đủ và không thiếu nội dung nào.

Thứ hai, không bổ sung thêm nội dung nào khac so với đề nghị giao kết HĐDS.

Nội dung mà bên được đề nghị giao kết hợp đồng trả lời không thỏa mãn hai yếu tố như đã nêu trên sẽ được coi là đã đưa ra đề nghị mới (trong trường hợp bên được đề nghị giao kết có sửa đổi, bổ sung, đồng ý một phần nội dung đề nghị giao kết hoặc có thể đồng ý việc giao kết hợp đồng nhưng không đồng ý với nội dung mà bên đề nghị giao kết đưa ra), hoặc không chấp nhận đề nghị giao ết HĐDS (trường hợp trả lời không đồng ý việc giao kết HĐDS với bên đề nghị giao kết). Do đó, trường hợp các bên có sự trao đổi qua lại, sửa đổi, bổ sung nội dung điều khoản đã nêu trong quá tình giao kết HĐDS sẽ có sự hoán vị từ bên được đề nghị giao kết hợp đồng thành bên đề nghị giao kết hợp đồng và ngược lại ... cho đến khi nào các bên thống nhất thỏa thuận được với nhau đồng ý toàn bộ nội dung của hợp đồng thì sẽ đi đến chính thức giao kết HĐDS.

2.2.2. Thời hạn trả lời chấp nhận giao kết HĐDS:

Thời hạn trả lời chấp nhận giao kết HĐDS được quy định tại Điều 397 BLDS 2005 như sau:

“1. Khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực khi được thực hiện trong thời hạn đó; nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời khi đã hết thời hạn trả lời thì chấp nhận này được coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời ......”.

Như vậy, BLDS 2005 đã quy định bổ sung quy định công nhận thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng đến chậm vì lí do khách quan mà bên đề nghị biết hoặc phải biết về lí do khách quan. Đồng thời có quy định “Trong trường hợp việc trả lời được chuyển qua bưu điện, thì thời điểm trả lời là ngày gửi đi theo dấu của bưu điện” (khoản 3 Điều 397 BLDS 1995)... nhằm đảm bảo tính thống nhất và phù hợp với giao lưu dân sự quốc tế.

2.2.3. Rút lại thông báo chấp nhận giao kết HĐDS:

Vấn đề rút lại thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng là một vấn đề mới được quy định tại Điều 400 BLDS 2005. Theo đó, bên được đề nghị giao kết hợp đồng có thể rút lại thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng, nếu thông báo này đến trước hoặc cùng với thời điểm bên đề nghị giao kết hợp đồng trong việc rút lại thông báo chấp nhận giao kết HĐDS, phù hợp với tính chất của quan hệ HĐDS.

2.2.4. Hậu quả pháp lý của sự chấp nhận đề nghị giao kết HĐDS:

BLDS 2005 quy định làm rõ hậu quả pháp lý của sự trả lời chấp nhận giao kết HĐDS trong trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự (Điều 398) và trường hợp bên được đề nghị giao kết hợp đồng chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự (Điều 399). Theo đó, trong trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự sau khi bên được đề nghị giao kết hợp đồng trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng thì việc trả mời chấp nhận giao kết hợp đồng vẫn có giá trị. Quy định này là rất cần thiết nhằm bảo đảm giá trị của HĐDS đã được giao kết.

Tuy nhiên, các quy định này chỉ hợp lý khi yếu tố nhân thân của các chủ thể không đóng vài trò quan trọng đối với việc thực hiện hợp đồng. Còn đối với các trường hợp đề nghị hay chấp nhận mang tính nhân thân (yếu tố nhân thân của người đề nghị hay người được đề nghị  có vai trò quyết định đối với giao kết, ví dụ như giao kết hợp đồng với ca sĩ, họa sĩ... ) thì sẽ không hợp lý vì khi ấy đề nghị (chấp nhận) sẽ hết hiệu lực nếu như bên đề nghị (bên trả lời chấp nhận) chết. Do đó, BLDS 2005 cũng cần phải quy định cụ thể hơn về vấn đề này.

2.3. Địa điểm, thời điểm giao kết HĐDS:

Trường hợp các bên giao kết HĐDS bằng phương thức trực tiếp thì địa điểm giao kết được xác định là nơi mà trực tiếp các bên đạt được thỏa thuận đồng ý toàn bộ nội dung hợp đồng và thời điểm giao kết HĐDS là thời điểm các bên đã thỏa thuận xong toàn bộ nội dung hợp đồng hoặc là thời điểm bên sau cùng kí vào văn bản.

Trường hợp các bên giao kết HĐDS bằng phương thức gián tiếp thì việc xác định địa điểm giao kết và thời điểm giao kết HĐDS được Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định cụ thể như sau:

+ Về địa điểm giao kết HĐDS, Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Địa điểm giao kết hợp đồng dân sự do các bên thoả thuận; nếu không có thoả thuận thì địa điểm giao kết hợp đồng dân sự là nơi cư trú của cá nhân hoặc trụ sở của pháp nhân đã đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng” (Điều 403). Đồng thời bổ sung quy định: “Trong trường hợp giao kết hợp đồng vắng mặt thì việc xác định nơi giao kết hợp đồng phải tuân theo pháp luật của nước nơi cư trú của cá nhân hoặc nơi có trụ sở chính của pháp nhân là bên đề nghị giao kết hợp đồng” (Điều 771).

READ  Tiểu luận Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công và liên hệ với giai cấp công nhân Việt Nam

+ Về việc xác định thời điểm giao kết HĐDS, Điều 404 Bộ luật Dân sự 2005 quy định:

“1. Hợp đồng dân sự được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết.

2. Hợp đồng dân sự cũng xem như được giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận được đề nghị vẫn im lặng, nếu có thoả thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết.

3. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói là thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng.

4. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản’’.

II. GIAO KẾT HỢP ĐỒNG DÂN SỰ - MỘT SỐ VẤN ĐỀ THỰC TIỄN :

Pháp luật của Việt Nam, đặc biệt là BLDS 2005 đã có quy định về giao kết HĐDS, tạo cơ sở pháp lý để các chủ thể thực hiện. Tuy nhiên, trên thực tế các chủ thể, nhất là các hợp đồng được cá nhân giao kết với nhau bằng lời nói thì thường thực hiện theo thói quen mà ít quan tâm đến quy định của pháp luật, chỉ khi nào việc thực hiện hợp đồng gặp khó khăn, trở ngại mới tìm hiểu xem pháp luật quy định vấn đề đó như thế nào.

Báo cáo tổng kểt hàng năm của Ngành Tòa án nhân dân do Tòa án nhân dân tối cao tổng hợp từ năm 2006 đến hết năm 2009 (từ khi thực hiện BLDS 2005) có nêu số liệu về các vụ việc dân sự (bao gồm : các tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động) được thụ lý, giải quyết, nhưng không có số liệu đánh giá riêng về giải quyết tranh chấp HĐDS cũng như giao kết HĐDS. Qua tìm hiểu thực tế giải quyết các vụ việc tranh chấp về hợp đồng dân sự về các Tòa án cho thấy các bên chủ yếu tranh chấp về các quyền, nghĩa vụ dân sự phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng; Còn tranh chấp trong quá trình giao kêt hợp đồng rất ít và nếu có thì các bên chủ yếu tranh chấp về khoản tiền đặt cọc để đảm bảo giao kết HĐ DS.

Về giao kết HĐDS trong trường hợp một người có nhiều tư cách chủ thể:

Giao kết HĐDS là quá trình bày tỏ, thống nhất ý chí giữa các bên với nhau để xác lập HĐ DS. Tuy nhiên, trên thực tế có trường hợp một người lại mang nhiều tư cách chủ thế khác nhau, khi ấy họ có được giao kết HĐDS với chính họ hay không ? Để trả lời cho câu hỏi trên, xem xét ví dụ sau :

Tháng 10/2009, ông Nguyễn Gia Hoàng, sinh năm 1971 và vợ là Trịnh Ngọc Yến, sinh năm 1980, thường trú tại phường Phan Bộ Châu, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng đến phòng công chứng làm thủ tục tặng cho con trai là Nguyễn Văn Hà, sinh năm 2005 (hiện đang ở cùng với bố mẹ) toàn bộ quyền sử dụng đất 35,6 mét vuông  đất ở và tài sản gắn liền với đất là nhà ba tầng cùng vật kiến trúc khác tại phường Đông Hải, quận Lê Chân, Hải phòng (có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và là tài sản chung của vợ chồng). Trong trường hợp này chủ thể giao kết hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất sẽ như thế nào

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không theo yêu cầu đền bù, còn bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, còn bên được tặng cho đồng ý nhận (Điều 465 BLDS 2005). Cháu Nguyễn Văn Hà mới 4 tuổi (chưa đủ 6 tuổi) không có năng lực hành vi dân sự nên trong hợp đồng tặng cho phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện (Điêu21 BLDS 2005). Mà theo quy định tại Điều 141 BLDS 2005 và Điều 39 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì cha mẹ là người đại diện theo pháp luật của con chưa thành niên (trừ trường hợp con có người khác làm giám hộ hoặc có người khác đại diện theo pháp luật). Như vậy, ông Nguyễn Gia Hoàng và vợ là Trịnh Ngọc Yến sẽ cùng đứng tên ở cả hai bên của hợp đồng với hai tư cách khác nhau để giao kết hợp đồng (là bên tặng cho tài sản và đại diện theo pháp luật của cháu Nguyễn Văn Hà là bên được tặng cho tài sản).

[external_link offset=2]

Quan điểm thứ hai cho rằng : Ông Nguyễn Gia Hoàng và vợ là Trịnh Ngọc Yến không thể cùng đứng tên ở cả hai bên của hợp đồng với hai tư cách khác nhau để giao kết hợp đồng (là bên tặng cho tài sản và đại diện theo pháp luật của cháu Nguyễn Văn Hà là bên được tặng cho tài sản) vì như vậy là họ đã giao kết với chính họ thì không thể xác lập HĐDS được. Như vạy, cần phải có người đại diện khác, hoặc người giám hộ khác để giao kết hợp đồng này.

Quan điểm thứ ba cho rằng : Riêng đối với hợp đồng mà chỉ mang lại lợi ích cho bên được đề nghị (như hợp đồng tặng cho tài sản) thì người khôgn đủ năng lực hành vi dân sự vẫn có thể tham gia giao kết với bên được tặng cho. Bởi lẽ theo hợp đồng này bên được tặng cho chỉ được hưởng tài sản chứ không phải thực hiện bất cứ nghĩa vụ nào.

Em đồng ý với quan điểm thứ ba, bở lẽ trên thực tế, khi bố mẹ tặng cho con mình (dưới 6 tuổi) những tài sản là đồ dùng sinh hoạt hằng ngày cũng không cần phải có người đại diện khác, hoặc giám hộ khác. Tuy nhiên, pháp luật cũng cần phải có quy định hướng dẫn cụ thể việc giao kết hợp đồng dân sự trong trường hợp mà một người có nhiều tư cách chủ thể để bảo đảm áp dụng thống nhất trong thực tế. Ví dụ như trường hợp giám đốc doanh nghiệp trực tiếp kí kết hợp đồng thuê tài sản (máy móc, nhà làm trụ sở... ) mà tài sản đó là của chính cá nhân họ.

Về hình thức của đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng bằng văn bản :

Pháp luật không quy định cụ thể về hình thức của đề nghi giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng dân sự. Khoản 4 Điều 404 BLDS 2005 có quy định : “Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng kí vào văn bản”. Theo quy định này có thể hiểu là: Đề nghị giao kết và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng với hình thức bằng văn bản bắt buộc phải có chữ ký của các bên được hay không? Trên thực tế, đối với những hợp đồng giao kết bằng văn bản thường phải có chữ ký (hoặc điểm chỉ) của các bên ; Đối với chủ thể giao kết HĐDS là tổ chức, pháp nhân thì đề nghị giao kết, chấp nhận đề nghị giao kết HĐDS thường có chữ kí, có đóng dấu.

Theo quy định tại Điều 41 Luật Công chứng năm 2006 thì việc điểm chỉ được thay thế việc ký trong văn bản công chứng trong các trường hợp người yêu cầu công chứng, người làm chứng không ký được do khuyết tật hoặc không biết ký; Hoặc theo đề nghị của người yêu cầu công chứng; Hoặc công chứng viên thấy cần thiết để bảo vệ quyền lợi cho người yêu cầu công chứng. Thực tế, khi giao kết HĐDS (trước khi thực hiện việc chứng nhận hợp đồng) nhiều công chứng viên thường yêu cầu chủ thể là cá nhân vừa ký vừa điểm chỉ (mặc dù họ không bị khuyết tật và biết ký) để bảo vệ quyền lợi của các bên.

Như vậy, đề nghi giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng với hình thức văn bản có đầy đủ các nội dung của hợp đồng và nội dung của hợp đồng nhưng không có chữ ký, hoặc có chữ ký nhưng không đóng dấu đối với pháp nhân, hoặc không có chữ ký nhưng có điểm chỉ ... thì có giá trị pháp lý ràng buộc các bên hay không cũng cần phải được quy định cụ thể để đảm bảo quyền lợi cho các chủ thể, hạn chế các tranh chấp có thể phát sinh.

Về thời hạn trả lời chấp nhận giao kết HĐDS quy định chưa đảm bảo tính thống nhất:

Chúng ta cùng xem xét vụ việc sau : Ngày 01/11/2009, Công ty trách nhiệm hữu hạn Hải Hoàng, có trụ sở tại Phú Thọ, gửi đề nghị giao kết HĐDS cho Công ty cổ phần xây dựng và kinh doanh nhà Phước Thịnh có trụ sở tại Vĩnh Phúc với nội dung : bán 100 tấn thép cây xây dựng, kích cỡ D8 – D22, chất lượng loại 1, xuât xứ lô hàng là Việt Nam; giá bán : +84888672676 VNĐ/tấn (chưa bao gồm VAT), thanh toán bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản ; điều kiện giao hàng là giao hàng trên phương tiện của bên mua; nếu Công ty cổ phần xây dựng và kinh doanh nhà Phước Thịnh đồng ý mua thì trả lời bằng văn bản trước ngày 15/11/2009. ngày 12/11/2009, Công ty cổ phần xây dựng và kinh doanh nhà Phước Thịnh chấp nhận đề nghị giao kết với nội dung nêu trên (theo dấu bưu điện), nhưng đến ngày 17/11/2009 Công ty trách nhiệm hữu hạn Hải Hoàng mới nhận được. Như vậy, trong trường hợp này chấp nhận đề nghị giao kết HĐDS có được công nhận hay không ?

Khoản 1 Điêu 397 BLDS 2005 có quy định: “1. Khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực khi được thực hiện trong thời hạn đó; nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời khi đã hết thời hạn trả lời thì chấp nhận này được coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời ......”.

Như vậy, trả lời chấp nhận đề nghị của Công ty cổ phần xây dựng và kinh doanh nhà Phước Thịnh được thực hiện trong thời gian đã nêu trong đề nghị giao kết nên có hiệu lực; Nhưng Công ty trách nhiệm hữu hạn Hải Hoàng lại nhận được trả lời chấp nhận đề nghị giao kết chậm 3 ngày nên được coi là một đề nghị mới của Công ty cổ phần xây dựng và kinh doanh nhà Phước Thịnh đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn Hải Hoàng. Đây là điểm quy định không thống nhất của khoản 1 Điều 397 BLDS 2005, khi đồng thời quy định việc trả lời chấp nhận có hiệu lực khi được thực hiện trong thời hạn đã được ấn định – tức là khi trả lời chấp nhận được gửi đi đã có hiệu lực lại vừa quy định bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời  khi đã hết thời hạn trả lời thì lời chấp nhận này được coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời – tức là trả lời chấp nhận đề nghị có hiệu lực và được công nhận khi bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời trong thời hạn ấn định.

III. KIẾN NGHỊ PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HĐDS Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI:

Việc hoàn thiện pháp luật về giao kết HĐDS ở Việt Nam phải tạo ra bước chuyển biến căn bản để điều chỉnh các quan hệ dân sự phát sinh trong quá trình giao kết hợp đồng giữa các chủ thể theo hướng tạp thuận lợi và bảo đảm sự an toàn pháp lý cho các chủ thể khi tham gia quan hệ hợp đồng. Trong phạm vi bài viết của mình, em xin nêu ra một số kiến nghị, đề ra phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về giao kết HĐDS ở Việt Nam trong thời gian tới như sau:

1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật quy định về giao kết HĐDS theo hướng Bộ luật Dân sự là đạo luật chung điều chỉnh vè giao kết hợp đồng trong lĩnh vực dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động:

Các quy định về HĐDS trong BLDS 2005 cần được sửa theo hướng dùng khái niệm “hợp đồng” để thay thế cho khái niệm “hợp đồng dân sự”, dùng thuật ngữ “giao kết hợp đồng” thay cho “giao kết hợp đồng dân sự” để áp dụng chung cho tất cả các loại hợp đồng (dân sự, kinh doanh, thương mại, lao đông). Ngoài ra, các quy định chung trong BLDS mà cần có thêm các quy định có tính chất riêng về giao tiếp hợp đồng chỉ áp dụng cho loại hợp đồng cụ thể thì sẽ quy định trong các văn bản pháp luật chuyên ngành như: Bộ luật Lao động; Luật thương mại; Luật chứng khoán... Như vậy sẽ đảm bảo phù hợp với thực tế cũng như tính ổn định cao của pháp luật.

2. Quy định nguyên tắc giao kết HĐDS bảo đảm tính thống nhất và tránh trùng lặp:

Theo em, việc giao kết HĐDS phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản đã được quy định tại Phần thứ nhất “Những quy định chung của Bộ luật Dân sự, đồng thời tuân theo các nguyên tắc khác liên quan trực tiếp đến quá trình giao kết hợp đồng. Do đó, nguyên tắc giao kết hợp đồng dân sự được quy định tại Điều 389 BLDS 2005 có thể sửa đổi, bổ sung và quy định là: “Việc giao kết HĐDS phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản được quy định tại Điều 4, Điều 5, Điều 6, Điều 8, Điều 10, Điều 11 của Bộ luật này và nguyên tắc hợp tác, ngay thẳng”. Quy định trên vừa thể hiện được các nguyên tắc đã được quy định tại Điều 389 BLDS 2005 đồng thời bổ sung nguyên tắc: “tôn trọng đạo đức, truyền thống tốt đẹp”, “tôn trọng lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác”, “tuân thủ pháp luật” mà các bên vẫn phải tuân theo khi giao kết HĐDS. Đặc biệt là giới hạn tự do giao kết hợp đồng “không được trái pháp luật, đạo đức xã hội” cũng như được thay thể bởi giới hạn “không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội” bảo đảm sự chính xác và tính thống nhất trong Bộ luật Dân sự.

3. Quy định cụ thể hình thức, nội dung của đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng để bảo đảm thuận tiện cho các bên trong quá trình giao kết hợp đồng:

+ Về hình thức đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng: Theo em, BLDS có thể quy định hình thức của đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng theo hướng khái quát là: “Đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng có thể thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Quy định này vừa đảm bảo rõ ràng, thuận tiện cho các bên trong quan hệ hợp đồng, vừa đảm bảo tính linh hoạt  khi có các hình thức giao kết hợp đồng mới phát sinh trên thực tế.

Bộ luật dân sự cũng cần quy định đề nghị giao kết và chấp nhận đề nghi giao kết hợp đồng với hình thức văn bản bắt buộc phải có chữ kí hoặc điểm chỉ của chủ thể giao kết hợp đồng. Đối với chủ thể giao kết HĐDS là tổ chức, pháp nhân thì đề nghị giao kết, chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng có chữ kí của người có thẩm quyền và có đóng dấu của tổ chức, pháp nhân đó.

+Về nội dung đề nghị giao kết hợp đồng: Theo em, nội dung của đề nghị giao kết hợp đồng cần có ba yếu tố chính: (1) Đề nghị giao kết HĐDS phải thể hiện ý định giao kết hợp đồng của bên đề nghị giao kết hợp đồng; (2) Phải có các nội dung chủ yếu của loại hợp đồng mà các bên muốn xác lập; (3) Phải thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng của bên đề nghị giao kết với chủ thể khác đã được xác định cụ thể.

Ngoài ra, nội dung đề nghi giao kết HĐDS có thể xác định rõ thời hạn trả lời chấp nhận đề nghị giao kết. Bộ luật Dân sự cũng cần quy định cụ thể cách thức xác định thời hạn trả lời chấp nhận đề nghị giao kết thì không được ấn định rõ trong đề nghị theo hướng: Đề nghị giao kết phải được chấp nhận trong khoảng thời gian hợp lý tùy từng trường hợp, có xem xét đến tốc độ truyền tin mà bên đề nghị dùng; Hoặc theo hướng quy định rõ số ngày (15 ngày hoặc 30 ngày) hoặc giao cho Tòa án xác định cụ thể khi giải quyết vụ việc tranh chấp.

Bộ luật Dân sự cũng cần quy định cụ thể về nội dung đề nghị giao kết hợp đồng trong trường hợp không xác định rõ nội dung của đề nghị giao kết trong trường hợp hứa thưởng và thi có giải, trong đó người công khai hứa thưởng, người tổ chức cuộc thi có giải không hướng tới chủ thể xác định cụ thể (hoặc trong các trường hợp tương tự) thì được coi là đề nghị giao kết hợp đồng đặc biệt hay đề nghị giao kết hợp đồng công cộng.

+Về nội dung chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng:  Các quy định về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự là quy định chung nhất áp dụng được cho tất cả các loại hợp đồng trong đó có lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Do đó, cũng cần nghiên cứu và quy định rõ đối với trường hợp trả lời có sửa đổi, bổ sung nhưng không ảnh hưởng nhiều đến các nội dung trong đề nghị giao kết hợp đồng thì được coi là sự chấp nhận, trừ khi bên đề nghị giao kết không đồng ý. Theo em, trả lời đề nghị giao kết hợp đồng có sửa đổi, bổ sung nhưng không ảnh hưởng nhiều đến các nội dung trong đề nghị giao kết hợp đồng như: Sửa đổi kết cấu điều khoản hợp đồng; Nêu rõ pháp luật áp dụng khi có tranh chấp... mà được bên đề nghị giao kết hợp đồng đồng ý thì có thể coi là chấp nhận đề nghị giao kết. Như vậy, sẽ phù hợp với quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại vốn rất năng động, linh hoạt và thông lệ quốc tế.

4. Bổ sung một số trường hợp làm chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng cho phù hợp với thực tế:

Điều 394 BLDS 2005 quy định về các trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt. Tuy nhiên, trên thực tế có các trường hợp khác cũng có thể làm chấm dứt đề nghi giao kết hợp đồng như: Trường hợp một hoặc hai bên (Bên đề nghị và bên được đề nghị giao kết) chết, mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị phá sản trước khi bên được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị; Đối tượng của HĐ DS dự kiến giao kết được nêu trong đề nghị giao kết không còn nữa do nguyên nhân bất khả kháng (Hợp đồng thuê nhà ở, nhưng nhà bị đổ dao bão...). Do đó, theo em, cần bổ sung các trường hợp này cho phù hợp với thực tế, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.

5. Cần bổ sung quy định nguyên tắc xác định địa điểm giao kết hợp đồng trước hết phải là nơi trực tiếp giao kết hợp đồng, sau đó mới đến các nơi khác:

Theo em, Điều 403 BLDS 2005 cần quy định cụ thể là:

“1. Địa điểm giao kết hợp đồng là nơi các bên trực tiếp giao kết hợp đồng;

2. Trường hợp không xác định được địa điểm giao kết hợp đồng theo khoản 1 Điều này thì địa điểm giao kết HĐDS do các bên thỏa thuận; nếu không có thỏa thuận thì địa điểm giao kết HĐDS là nơi cư trú của cá nhân hoặc trụ sở của pháp nhân đã đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng.”

Quy định như vậy sẽ đảm bảo xác định đúng địa điểm giao kết hợp đồng, đồng thời phù hợp với việc giao kết hợp đồng trên thực tế.

6. Quy định cụ thể nghĩa vụ cung cấp thông tin của các bên trong quá trình giao kết hợp đồng:

Theo em, Bộ luật Dân sự cần bổ sung một điều quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin của các bên giao kết hợp đồng. Theo đó các bên có nghĩa vụ cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời trong quá trình giao kết hợp đồng. Cũng cần có quy định bên đề nghị giao kết có nghĩa vụ thông báo không chậm trễ cho bên được đề nghị biết họ đã không nhận được trả lời chấp nhận đề nghị trong hạn  nên đề nghị giao kết hợp đồng bị hủy bỏ; Quy định bên được đề nghị giao kết có nghĩa vụ thông báo kịp thời bằng phương tiện truyền tin nhanh nhất để bên đề nghị giao kết hợp đồng biết trước khi bên đề nghị giao kết nhận được văn bản chính thức theo đường bưu điện...

KẾT LUẬN:

Việc hoàn thiện pháp luật về giao kết HĐDS ở Việt Nam phải tạo ra bước chuyển biến căn bản để điều chỉnh các quan hệ dân sự phát sinh trong quá trình giao kết hợp đồng giữa các chủ thể theo hướng tạo thuận lợi và bảo đảm sự an toàn pháp lý cho các chủ thể khi tham gia quan hệ hợp đồng. Trong phạm vi bài viết của mình, em đã nêu ra một số kiến nghị, đề ra phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về giao kết HĐDS ở Việt Nam trong thời gian tới.

Trên đây là toàn bộ ý kiến của em về đề tài: “Giao kết hợp đồng dân sự theo quy định pháp luật hiện hành. Một số vấn đề lí luận và thực tiễn”, vì nhận thức còn hạn chế nên khi tiếp cận vấn đề không tránh khỏi những sái sót. Kính mong nhận được sự bổ sung, đánh giá của các thầy, cô giáo để bài viết của em được hoàn thiện hơn.

Em xin chân thành cảm ơn!

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Trường ĐH Luật Hà Nội, Giáo trình luật Dân sự Việt Nam 2, Nxb CAND, Hà Nội, 2009.

2.Bộ luật Dân sự năm 2005.

3.Vũ Đức Lịch, Luận án thạc sĩ luật học, Một số vấn đề cơ bản về giao kết HĐDS trong pháp luật Việt Nam, Hà Nội, 2010.

4.Trần Kim Chi, Luận án thạc sĩ luật học, Một số vấn đề lí luận và thực tiễn trong HĐDS, Hà Nội, 2005. 

Tiểu luận về hiệu lực của hợp đồng dân sự 

MỞ ĐẦU

Hợp đồng dân sự là một trong những phương thức hữu hiệu để các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự  thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Hơn nữa, đó hơn một năm qua Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới, đang trên đà hội nhập nền kinh tế toàn cầu, quá trình hội nhập mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng có nhiều thách thức. Các tranh chấp về hợp đồng dân sự cũng ngày một gia tăng và mức độ phức tạp ngày càng cao đòi hỏi pháp luật về hợp đồng dân sự phải hoàn thiện hơn để giải quyết một cách triệt để. Khó khăn trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến hợp đồng dân sự là do các bên không tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Vì vậy, những quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh những quan hệ giao lưu dân sự của nền kinh tế thị trường, vì vậy để hiểu thêm về “hiệu lực hợp đồng dân sự” nội dung bài viết của em sẽ đi tìm hiểu về vấn đề này.

NỘI DUNG

  1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG

  2. Khái niệm hợp đồng.

Điều 388- Bộ luật dân sự 2005: “hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Khái niệm hợp đồng được đưa ra một cách khái quát hơn theo đó hợp đồng chính là sự thoả thuận giữa các bên, từ sự thoả thuận ấy làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quyền, nghĩa vụ dân sự và đối tượng của hợp đồng là việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự.

  1. Đặc điểm của hợp đồng.

2.1. Hợp đồng là hành vi pháp lí song phương

Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên – như vậy, hợp đồng là hành vi pháp lí song phương. Hành vi pháp lí này đòi hỏi sự thể hiện và thống nhất ý chí của hai hay nhiều bên làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.

2.2. Hợp đồng- nguồn chủ yếu làm phát sinh nghĩa vụ

Dự nhìn nhận hợp đồng với các góc độ khác nhau nhưng nhìn chung hợp đồng chính là căn cứ chủ yếu làm phát sinh nghĩa vụ. Theo Điều 13-khoản 1 Bộ luật dân sự 2005, giao dịch dân sự là một trong những căn cứ xác lập quyền và nghĩa vụ dân sự. Cũng theo Điều 281-khoản 1 Bộ luật dân sự 2005 căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự là hợp đồng dân sự. Hợp đồng là kết quả của sự thống nhất ý chí tự nguyện, trở thành nguồn chủ yếu làm phát sinh nghĩa vụ.

  1. ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG.

1.Điều kiện về chủ thể tham gia hợp đồng

Phạm vi người tham gia quan hệ hợp đồng bao gồm: cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. Điều kiện để hợp đồng có hiệu lực là “ người tham gia hợp đồng có năng lực hành vi dân sự”- như vậy “ người” ở đây phải được nhìn nhận dưới góc độ pháp lí tức là không chỉ là cá nhân mà còn bao gồm pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. 

1.1. Chủ thể tham gia hợp đồng là cá nhân

Pháp luật dân sự quy định chủ thể tham gia hợp đồng phải có năng lực hành vi. Điều17- Bộ luật dân sự 2005 quy định: “năng lực hành vi của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự”. Năng lực hành vi là khả năng hành động của chính chủ thể để tạo ra các quyền, thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ. 

READ  Tiểu luận nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở đảng bộ xã long kiến, huyện chợ mới đến năm 2015 – thực trạng và giải pháp - | XEMTAILIEU

Chỉ có những người có năng lực hành vi mới có ý chí riêng và khả năng nhận thức được hành vi của họ để có thể tự mình xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự phát sinh từ hợp đồng và tự mình chịu trách nhiệm trong hợp đồng. Bộ luật dân sự Việt Nam cũng không quy định cá nhân tham gia hợp đồng phải có năng lực hành vi dân sự đẩy đủ mà đối với cá nhân ở các độ tuổi khác nhau sẽ có năng lực hành vi dân sự khác nhau và từ đó sẽ có khả năng tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng khác nhau.

Đối với những người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ là những người đã thành niên (từ đủ 18 tuổi trở lên) trừ trường hợp bị Toà Án tuyên bố mất năng lực hành vi, tuyên bố hạn chế năng lực hành vi thì được toàn quyền xác lập mọi hợp đồng. Như vậy, pháp luật chỉ quy định độ tuổi tối thiểu mà không quy định độ tuổi tối đa của người tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng. Họ có đủ tư cách chủ thể, toàn quyền tham gia xác lập hợp đồng và tự mình chịu trách nhiệm về những hành vi do họ thực hiện. Tuy nhiên,theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình đối với nữ từ 18 tuổi (17 tuổi + 1 ngày) trở lên có quyền kết hôn nhưng người phụ nữ dự đủ tuổi kết hôn vẫn chưa có đủ năng lực hành vi dân sự. Vì vậy, khi họ tham gia vào quan hệ hợp đồng phải được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật nếu không hợp đồng sẽ bị vô hiệu. 

Mặt khác, quy định có người năng lực hành vi là một trong những điều kiện có hiệu lực của hợp đồng không được hiểu theo nghĩa cứ có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì có thể tham gia mọi giao dịch mà trên thực tế vẫn có những quy định mang tính hạn chế người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ tham gia vào một số giao dịch nhất định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của những người liên quan. Đó là các trường hợp được quy định tại Điều 144- Bộ luật dân sự 2005 về người đại diện không được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với người thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó hay các giao dịch dân sự giữa người giám hộ và người được giám hộ đều vô hiệu chỉ trừ trường hợp giao dịch được thực hiện vì lợi ích của người được giám hộ và có sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ. Hay tại khoản 3, Điều 69- Bộ luật dân sự 2005 quy định: “các giao dịch dân sự giữa người giám hộ và người được giám hộ có liên quan đến tài sản của người được giám hộ đều vô hiệu, trừ trường hợp giao dịch được thực hiện vì lợi ích của người được giám hộ và có sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ”. 

Ngoài ra, đối với những cá nhân tuy có đủ năng lực hành vi dân sự nhưng có thể tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng thông qua người đại diện theo quy định của pháp luật trừ trường hợp pháp luật quy định cá nhân đó phải tự mình tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng đó.

Đối với người có năng lực hành vi dân sự một phần chỉ có thể xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ trong một giới hạn nhất định do pháp luật dân sự quy định. Đó là những người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi khi tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật. Cá nhân từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi là những người có năng lực hành vi một phần. Họ có thể bằng hành vi của mình tạo ra quyền và phải chịu những nghĩa vụ khi tham gia hợp đồng để phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày phù hợp với lứa tuổi. Nhưng pháp luật lại không quy định rõ những giao dịch nào là giao dịch “phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày và phù hợp với lứa tuổi” nhưng có thể hiểu rằng đó là các giao dịch mang các đặc điểm sau : 

- Có giá trị nhỏ;  

- Mục đích của hợp đồng là phục vụ nhu cầu sinh hoạt, học tập hằng ngày. 

Đối với các giao dịch này được coi là những người đại diện của họ cho phép thực hiện mà không cần sự đồng ý trực tiếp của những người đại diện. Trừ các giao dịch có tính chất trên, các giao dịch do người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi xác lập, thực hiện phải được người đại diện đồng ý- đồng ý việc thực hiện giao dịch cũng như nội dung của giao dịch đó. Thời điểm đồng ý không có ý nghĩa quyết định. Nếu người được đại diện đã thực hiện giao dịch không có sự đồng ý của người đại diện thì với tư cách là người đại diện, họ có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu theo quy định của pháp luật.

Tại khoản 2 - Điều 20 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Trong trường hợp người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch mà không cần phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật”. Quy định này xuất phát từ thực tế người từ đủ 15 tuổi có quyền giao kết hợp đồng lao động và có thu nhập riêng hợp pháp, tạo điều kiện cho họ thực sự trở thành chủ thể độc lập trong đời sống kinh tế - xã hội.

Nhưng cũng cần lưu ý pháp luật dân sự quy định một số giao dịch cụ thể chỉ có thể do người đã thành niên xác lập mới có hiệu lực, đặc biệt là các hợp đồng pháp luật bắt buộc phải có công chứng. Trong trường hợp đó người chưa thành niên dự có tài sản riêng cũng không có năng lực hành vi dân sự để giao kết hợp đồng. 

Đối với người không có năng lực hành vi dân sự là người chưa đủ 6 tuổi. Họ không có quyền tham gia bất cứ một giao dịch nào. Mọi giao dịch của những người này phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện. Nguyên nhân là do họ chưa đủ ý chí cũng như lý trí để hiểu được hành vi và hậu quả của những hành vi đó.

Đối với người bị mất năng lực hành vi theo Điều 22 - Bộ luật dân sự 2005 là người “do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình”. Như vậy, người thành niên có thể bị tuyên bố mất năng lực hành vi khi có những điều kiện, với trình tự, thủ tục nhất định và trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định có thẩm quyền, Toà án có thể tuyên bố một người bị mất năng lực hành vi theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan. Vì vậy, với những người bị mất năng lực hành vi khi tham gia xác lập, thực hiện giao dịch họ đều phải thông qua người đại diện theo pháp luật.

Đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự theo Điều 23 Bộ luật dân sự 2005 là người “nghiện ma tuý, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình” thì giao dịch dân sự liên qua đến tài sản của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày. Người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện do Toà án quyết định. 

Đại diện theo pháp luật của cá nhân có năng lực hành vi dân sự một phần, cá nhân không có năng lực hành vi dân sự, cá nhân bị mất năng lực hành vi dân sự hay bị hạn chế năng lực hành vi dân sự được xác lập theo quy định của pháp luật hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Thẩm quyền đại diện theo pháp luật được pháp luật quy định hoặc thể hiện trong quyết định cử đại diện của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc xác lập đại diện này thường không phụ thuộc vào ý chí cuả người được đại diện. Người đại diện theo pháp luật có thẩm quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch vì lợi ích của người được đại diện trừ trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền cú quyết định khác. 

Tuy nhiên, trường hợp đại diện người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự có một số nét đặc biệt riêng. Thẩm quyền đại diện đối với người bị hạn chế năng lực hành vi khác thẩm quyền đại diện đối với người bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc có năng lực hành vi dân sự một phần. Người đại diện cho người bị hạn chế năng lực hành vi không thể tự mình xác lập giao dịch thay cho người bị hạn chế mà chỉ có quyền “đồng ý” hay “ không đồng ý”. Chính người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự vẫn trực tiếp tham gia giao kết hợp đồng nhưng với sự chấp thuận của người đại diện. Người đại diện chỉ đúng  vai trò giám sát, đồng ý hay không đồng ý mà thôi. Nếu giao dịch đó không làm ảnh hưởng đến lợi ích của chính người đại diện của những người thân thích trong gia đình của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì người đại diện theo pháp luật cho phép người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự được xác lập, thực hiện giao dịch. 

Tuy nhiên, một trường hợp đã được dự liệu trong pháp luật dân sự tại điều 133 là trường hợp người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, không bị hạn chế năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập, thực hiện giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì sẽ bị tuyên là vô hiệu. Đây có thể được coi là trường hợp ngoại lệ của trường họp người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ không bị mất năng lực hành vi dân sự hay bị hạn chế năng lực hành vi dân sự song đã xác lập giao dịch trái với ý chí của họ nên họ có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình bởi khi đó đã vi phạm tính tự nguyện khi tham gia giao dịch.

Như vậy, nếu cá nhân tham gia hợp đồng không có năng lực hành vi dân sự thì hợp đồng sẽ vô hiệu. Trong trường hợp này hợp đồng vô hiệu tương đối (vô hiệu bị tuyên) chỉ khi các bên hoặc những người đại diện của họ yêu cầu Toà án tuyên bố vô hiệu thì Toà án mới xem xét và quyết định. Bên yêu cầu phải có nghĩa vụ chứng minh trước Toà cơ sở của yêu cầu là do đó tham gia xác lập hợp đồng với người không có năng lực hành vi dân sự. Điều 130- Bộ luật dân sự 2005 quy định hợp đồng do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện sẽ vô hiệu. Theo Điều 136- Bộ luật dân sự 2005 thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu trong trường hợp này là 2 năm kể từ ngày xác lập hợp đồng. So với quy định tại Điều 145- Bộ luật dân sự 1995 thì Bộ luật dân sự 2005 đã có sự thay thế cụm từ “thời hạn” bằng cụm từ thời hiệu cho chính xác hơn và đã tăng thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu từ 1 năm lên thành 2 năm. Việc quy định thời hiệu 1 năm như trước đây tương đối ngắn, chưa phù hợp thực tế và không bảo đảm được quyền, lợi ích hợp pháp của bên không có lỗi khi tham gia hợp đồng nên việc tăng thời hạn thành 2 năm là hoàn toàn hợp lí. Về nguyên tắc, hợp đồng dân sự vô hiệu không phát sinh quyền, nghiã vụ nhưng không phải lúc nào các bên tham gia hợp đồng cũng phát hiện ra các vi phạm là điều kiện dẫn đến hợp đồng vô hiệu. Thông thường chỉ có một bên có quyền lợi trong việc huỷ bỏ hợp đồng vô hiệu nên việc giải quyết hợp đồng vô hiệu thường được thông qua con đường tố tụng tại Toà án. Do đó, việc quy định thời hiệu để các bên yêu cầu Toà án tuyên bố một hợp đồng vô hiệu có ý nghĩa lớn về lí luận và thực tiễn. Cơ sở lí luận của việc xác định thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên hợp đồng vô hiệu dựa trên:

- Thời gian có thể làm cho hợp đồng vi phạm điều kiện mà pháp luật quy định trở thành hợp đồng có hiệu lực được không;

- Quyền tự định đoạt của các bên trong hợp đồng sau một thời gian nhất định;

- Nhu cầu bảo vệ sự ổn định của hợp đồng nhằm bảo đảm hài hồ giữa lợi ích của nhà nước và công dân. 

Từ những cở sở đó, căn cứ vào quyền tự định đoạt của các bên tham gia hợp đồng thì thời hạn để những người này quyết định việc có yêu cầu Toà án bảo vệ hay không là 2 năm. Nếu họ không khởi kiện trong thời hạn này thì có nghĩa là họ từ chối quyền yêu cầu được pháp luật bảo vệ. Nhưng thời hiệu 2 năm lại được tính từ thời điểm hợp đồng được xác lập. Trong khi đó,  Bộ luật dân sự Pháp lại quy định thời hiệu khởi kiện huỷ hợp đồng vô hiệu tương đối là 5 năm- thời hiệu dài hơn rất nhiều so với quy định của Bộ luật dân sự Việt Nam và cũng theo nguyên tắc tính từ ngày hợp đồng được kí kết nhưng lại quy định thêm trường hợp ngoại lệ: “Đối với hợp đồng được giao kết có chủ thể là người không có, bị mất, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự: nếu chủ thể là người chưa thành niên thì thời hiệu kiện huỷ hợp đồng được tính từ ngày người đó đủ tuổi thành niên. Nếu chủ thể là người đã thành niên bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự, thì thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày người đó có đầy đủ năng lực hành vi dân sự”. Theo em, Bộ luật dân sự Việt Nam nên tiếp cận cách tính thời hiệu như vậy sẽ bảo vệ tối đa hơn quyền, lợi ích hợp pháp của bên bị vi phạm.

Thực tiễn: Các loại hợp đồng do chủ thể là cá nhân thực hiện rất nhiều, song cũng có những trường hợp thực hiện không đúng qui định của pháp luật đặc biệt là trường hợp bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Họ không biết được pháp luật qui định chủ thể bị hạn chế năng lực hành vi dân giao kết hợp đồng sẽ bị vụ hịêu. Mặt khác có trường hợp lại lợi dụng những chủ thể như vậy để lừa đảo chiems đoạt tài sản.

1.2. Chủ thể tham gia hợp đồng là pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác pháp nhân theo Điều 84 Bộ luật dân sự là một thực thể độc lập thống nhất, được thành lập hợp pháp, có tài sản riêng và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình, nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập.

Năng lực pháp luật của pháp nhân được hiểu là khả năng của pháp nhân có các quyền và nghĩa vụ dân sự phù hợp mục đích hoạt động của mình. Năng lực pháp luật của pháp nhân phát sinh từ thời điểm pháp nhân được thành lập và chấm dứt từ thời điểm chấm dứt pháp nhân.

Hộ gia đình theo quy định tại Điều 106- Bộ luật dân sự 2005 được hình thành trên cơ sở các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất. 

Tổ hợp tác theo quy định tại Điều 111- Bộ luật dân sự 2005 “được hình thành trên cơ sở hợp đồng hợp tác có chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn từ ba cá nhân trở lên, cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện những công việc nhất định, cùng hưởng hoa lợi và cùng chịu trách nhiệm là chủ thể trong các quan hệ dân sự”. 

Với quy định “người tham gia hợp đồng có năng lực hành vi dân sự” chúng ta có thể hiểu năng lực hành vi của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác được xem xét thông qua vai trò của người đại diện. Người đại diện xác lập, thực hiện hợp đồng nhân danh pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác sẽ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ cho pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. 

 

Theo quy định của pháp luật, pháp nhân chỉ tham gia hợp đồng phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của pháp nhân; hộ gia đình chỉ tham gia hợp đồng liên quan đến quyền sử dụng đất, hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác theo quy định của pháp luật. Tổ hợp tác chỉ tham gia các hợp đồng liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của tổ được xác định trong hoạt động hợp tác.

Người đại diện cho các chủ thể này có thể thực hiện thông qua 2 cơ chế đại diện. Đó là:

- Đại diện theo pháp luật: Trường hợp người đại diện cho pháp nhân là người đứng đầu pháp nhân được quy định trong điều lệ của pháp nhân hoặc trong quyết định thành lập pháp nhân; trường hợp người đại diện cho hộ gia đình là chủ hộ trong đó cha hoặc mẹ hoặc một thành viên khác đã thành niên có thể là chủ hộ. Đối với người đại diện cho tổ hợp tác đại diện theo pháp luật là tổ trưởng do các tổ viên cử ra. Giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện sẽ không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với bên được đại diện là pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác trừ trường hợp ngươi đại diện cho pháp nhân, họ gia đình, tổ hợp tác đó đồng ý. 

- Đại diện theo uỷ quyền: đối với hình thức này ngưòi đại diện có thể là bất cứ ai và phải dựa trên hợp đồng uỷ quyền. Trường hợp này, người đại diện chỉ được xác lập, thực hiện những hợp đồng trong phạm vi đại diện. Nếu  người đại diện theo uỷ quyền của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác xác lập, thực hiện những hợp đồng vượt quá phạm vi đại diện hoặc không nằm trong phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác đối với phần giao dịch được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện hoặc không nằm trong phạm vi đại diện. Người đã giao dịch với người đại diện có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hoặc huỷ bỏ giao dịch dân sự đối với phần vượt quá phạm vi đại diện hoặc toàn bộ giao dịch dân sự và yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Trong trường hợp này, nếu người đại diện cho pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác khi tham gia xác lập hợp đồng không có năng lực hành vi dân sự thì hợp đồng bị vô hiệu tương đối và thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu cũng là 2 năm kể từ ngày xác lập hợp đồng.

Thực tiễn: Hiện nay do tình hình kinh tế phát triển nên có nhiều hợp đồng được thực hiện bởi những chủ thể này, tuy nhiên đây không phải là đại diện cho cá nhân mà đại diện cho tập thể nên trong thực tế có hợp đồng được ký không đúng thẩm quyền làm cho hợp đồng bị vô hiệu, gây thiệt hại cho một trong các bên tham gia. Vì thế khi ký kết với các chủ thể này cần xác định đúng người có thẩm quyền ký kết. 

  1. Điều kiện về mục đích, nội dung của hợp đồng

Bộ luật dân sự quy định điều kiện có hiệu lực của hợp đồng là: “mục đích, nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội”. Theo Điều 123 Bộ luật dân sự 2005: “Mục đích của hợp đồng là lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt được”. Lợi ích hợp pháp là các hành vi mà các bên trong hợp đồng sẽ thực hiện để đem lại một kết quả nhất định. Hợp đồng lại là căn cứ phát sinh nghĩa vụ mà đối tượng của nghĩa vụ chính là tài sản, công việc phải thực hiện hoặc không được thực hiện. Vì vậy, lợi ích hợp pháp đó có thể là vật, công việc phải thực hiện hoặc không được thực hiện. Không thể có hành vi mang tính ý chí khi các chủ thể tham gia vào việc xác lập, thực hiện hợp đồng lại không nhằm vào một mục đích nhất định. Mục đích của hợp đồng là yếu tố không thể thiếu trong hợp đồng, là cơ sở xác định việc xác lập, thực hiện hợp đồng đó có hiệu lực pháp lí hay không.

Mục đích của hợp đồng khác với động cơ xác lập hợp đồng. Động cơ của hợp đồng là nguyên nhân thúc đẩy các bên tham gia hợp đồng không được coi là yếu tố đương nhiên phải có trong hợp đồng. Nếu động cơ không đạt được không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng nhưng hợp đồng không có mục đích hoặc mục đích không đạt được sẽ làm hợp đồng vô hiệu. Mục đích luôn luôn được xác định cụ thể còn động cơ có thể được xác định hoặc không. Ví dụ như trong hợp đồng mua bán nhà mục đích của hợp đồng là mua nhà để có quyền sở hữu nhà nhưng động cơ có thể để ở, cho thuê hay bán lại cho người khác. Động cơ của hợp đồng có thể được các bên thoả thuận trở thành một điều khoản của hợp đồng, một bộ phận cấu thành của hợp đồng. 

Mục đích của hợp đồng và nội dung của hợp đồng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Con người xác lập, thực hiện hợp đồng luôn nhằm một mục đích nhất định. Muốn đạt được mục đích đó họ phải cam kết, thoả thuận về các điều khoản trong hợp đồng hay chính là nội dung của hợp đồng. Nội dung của hợp đồng là tổng hợp các điều khoản mà các bên đã cam kết, thoả thuận  trong hợp đồng. Các điều khoản đó sẽ xác định quyền, nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng. Nội dung của hợp đồng được quy định cụ thể ở điều 402- Bộ luật dân sự theo đó nội dung của hợp đồng gồm các điều khoản về đối tượng của hợp đồng; giá cả, phương thức thanh toán; số lượng, chất lượng, thời hạn, phương thức thực hiện hợp đồng; quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng… Nhưng để hợp đồng có thể phát sinh hiệu lực pháp luật thì mục đích và nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội có nghĩa là mục đích và nội dung của hợp đồng không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nuớc, lợi ích công cộng, lợi ích hợp pháp của nguời khác đã được khẳng định là một trong những nguyên tắc cơ bản của luật dân sự.

So với Bộ luật dân sự 1995 thì Bộ luật dân sự 2005 đã có sự sửa đổi cho chính xác hơn khi sử dụng cụm từ “điều cấm của pháp luật” thay cho cụm từ “ không trái pháp luật”- một cụm từ mang tính chung chung. Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. Đạo đức xã hội có phạm vi rộng, có vai trò chi phối hành vi và ý thức của con người, góp phần làm hài hồ lợi ích của cá nhân, tập thể và xã hội. Đạo đức xã hội là một dạng của quy phạm xã hội, cùng với quy phạm pháp luật -mang tính bắt buộc chung, được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế Nhà nước thì đạo đức xã hội góp phần điều chỉnh hành vi của con người theo đúng chuẩn mực xã hội. Điều 1123- Bộ luật dân sự Pháp 1804 cũng đã ghi nhận“nghĩa vụ không có mục đích, hoặc dựa trên một mục đích bị làm sai lệch hoặc mục đích trái pháp luật thì sẽ không có hiệu lực”. Hay tại Điều 138- Bộ luật dân sự Đức cũng quy định hợp đồng trái với quy tắc đạo đức sẽ bị vô hiệu và hợp đồng vô hiệu nếu một bên tham gia hợp đồng giữ vị trí ưu thế về kinh tế đã lạm dụng vị thế của mình để áp đặt những điều khoản quá bất lợi cho bên kia. Ngoài ra hợp đồng sẽ vô hiệu nếu vi phạm các quyền cơ bản được quy định trong Hiến pháp như quyền tự do đi lại, tự do kinh doanh của công Đức… Một hình thức vi phạm đạo đức xã hội nữa làm vô hiệu hợp đồng là việc một người lạm dụng vị trí ưu thế của mình về thứ bậc hay vị trí yếu thế của người khác để áp đặt cho người đó những điều kiện bất lợi (khoản 2- Điều 138 - Bộ luật dân sự Đức) . Như vậy, để hợp đồng có hiệu lực pháp luật thì mục đích và nội dung của giao dịch không được vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Nội dung của hợp đồng, các quyền, nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng phải hợp pháp, có thể thực hiện được và không được phép xác lập, thực hiện những hợp đồng mà pháp luật cấm hoặc trái đạo đức xã hội (mua bán vũ khí, súng đạn..). Đối tượng của hợp đồng phải là vật, quyền tài sản được phép giao dịch, phải tuân thủ những điều kiện, trình tự, thủ tục, nội dung của từng loại hợp đồng cụ thể. Nếu pháp luật không quy định cụ thể thì các bên có quyền xác lập, thực hiện những hợp đồng không trái với những nguyên tắc cơ bản của luật dân sự. Các hợp đồng có mục đích, nội dung không hợp pháp sẽ không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự. Nói cách khác hợp đồng đó bị coi là vô hiệu.

READ  Hướng dẫn cách trình bày tiểu luận trong word chuẩn nhất

Trong trường hợp hợp đồng đã xác lập vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội sẽ dẫn đến hậu quả pháp lí hợp đồng vô hiệu tuyết đối (vô hiệu đương nhiên). Hợp đồng vô hiệu tuyệt đối không có hiệu lực từ thời điểm giao kết và mặc nhiên bị coi là vô hiệu. Đối với trường hợp này, các bên tham gia hợp đồng, những người có quyền, lợi ích liên quan đều có quyền yêu cầu Toà án tuyên hợp đồng vô hiệu để bảo vệ lợi ích chung, lợi ích cộng đồng. Thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên hợp đồng vô hiệu không hạn chế. Như vậy có vẻ hợp lí hơn bởi nếu quy định hợp đồng vô hiệu có thời hiệu yêu cầu tuyên vô hiệu là không xác định, trên thực tế rất khó áp dụng mặc dù để bảo vệ lợi ích cộng đồng nhưng có thể dẫn đến tình trạng mất ổn định xã hội, việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên khó khăn  và việc tìm chứng cứ chứng minh cũng là cả một vấn đề. Do vậy, việc quy định một thời hiệu nhất định cho hợp đồng vô hiệu tuyệt đối mà trong trường hợp này là vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội là rất cần thiết.

Thực tế : Vẫn có những hợp đồng vi phạm điều cấm pháp luật và trái đạo đức xã hội, tuy nhiên đây là những hợp đồng nhằm chống lại chế độ pháp luật nước ta, hay những hợp đồng bị ép buộc ký kết nhằm gây thiệt hại cho danh dự nhân phẩm, hoặc vì lợi cá nhân. Song loại hợp đồng này cũng không nhiều, phần lớn họ đề vì mục đích của họ tì mới giao kết hợp đồng.

  1. Điều kiện về sự tự nguyện trong hợp đồng

Bản chất của hợp đồng là sự thống nhất ý chí và sự bày tỏ ý chí nên người tham gia hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện. Sự tự nguyện của những người tham gia hợp đồng được đặt trên căn bản của thuyết tự do ý chí. Thuyết tự do ý chí trong giao kết hợp đồng xuất hiện từ thế kỉ thứ XVIII và nằm trong hệ thống các quan điểm của nền triết học ánh sáng. Một số người cho rằng quan điểm này là của Kant- nhà triết học người Đức đưa ra . Thuyết tự do ý chí trong giao kết hợp đồng xuất phát từ quan điểm cho rằng ý chí của con người là tối thượng và tự chủ. Chỉ các hành vi xuất phát từ ý chí của con người mới có hiệu lực ràng buộc đối với người đú. Một người chỉ bị ràng buộc theo cách mà người đú muốn.

Xuất phát từ bản chất của quan hệ hợp đồng ngay thời kì của pháp luật La Mã đó ghi nhận ý chí đó thoả thuận của các bên là một trong những điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Có thể thấy rằng toàn bộ bản chất của hợp đồng (sự thoả thuận và thống nhất ý chí của chủ thể khi tham gia hợp đồng) đó được thể hiện ngay trong hầu hết khái niệm về hợp đồng của pháp luật các nước. Chúng ta có thể thấy điều đú trong khái niệm về hợp đồng của Bộ luật dân sự Nhật Bản “là một loại giao dịch dân sự thể hiện sự thống nhất ý chí của hai hay nhiều bên. Mục đích của hợp đồng thông thường làm phát sinh nghĩa vụ” thì tự do ý chí được đặt lên hàng đầu. Hay ở Điều 1305- Bộ luật dân sự Philipin cũng đưa ra khỏi niệm hợp đồng “là sự thống nhất ý chí giữa hai bên, theo đú, mỗi bên tự ràng buộc mình trên cơ sở tôn trọng bên kia để đưa ra một cái gì đú hoặc trả cho một dịch vụ nào đú” và ngay trong Điều 388- Bộ luật dân sự nước ta khái niệm về hợp đồng “là sự thoả thuận giữa các bên” cũng thể hiện rõ bản chất của hợp đồng là sự tự do ý chí. Như vậy, tự do ý chí của chủ thể là yếu tố quan trọng trong hợp đồng. Đú chính là một trong ba điều kiện để xác định hợp đồng có hiệu lực hay không.

Trong hợp đồng các chủ thể tham gia hoàn toàn tự nguyện. Điều này cũng được thể hiện trong nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận quy định tại Điều 4- Bộ luật dân sự theo đú quyền này được pháp luật bảo đảm nếu cam kết, thoả thuận không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Trong hợp đồng các chủ thể tham gia hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được ép buộc, cuỡng ép, đe doạ, ngăn cản bên nào. Hợp đồng là hành vi có chủ đích của chủ thể tham gia, là hành vi mang tính ý chí của chủ thể. Cam kết, thoả thuận là cốt lõi tạo nên hợp đồng và ý chí của các chủ thể là yếu tố cơ bản cuả một hợp đồng. Vì vậy “nếu hợp đồng có điều khoản không rõ ràng thì theo Điều 409- Bộ luật dân sự 2005 chúng ta không chỉ dựa vào ngôn từ của hợp đồng mà còn phải căn cứ vào ý chí chung của các bên để giải thích điều khoản đú”.

Người tham gia hợp đồng hoàn toàn tự nguyện có nghĩa là tự do ý chí và sự thể hiện ý chí của các bên. Ý chí “là khả năng tự xác định mục đích cho hành động và hướng hành động của mình, khắc phục khó khăn nhằm đạt mục đích đú” nhưng nó vẫn chỉ là điều mong muốn, là nguyên nhân thúc đẩy các chủ thể hướng tới việc xác lập hợp đồng. Ý muốn và lựa chọn biện pháp để đạt được ý muốn đú thuộc ý chí chủ quan của chủ thể. Tự do ý chí ở đây được thể hiện là việc tự do lựa chọn phương thức để đạt được ý muốn của mình. Tuy nhiên, việc lựa chọn phương thức nào lại phụ thuộc vào các điều kiện khách quan, chủ quan như khả năng tài chính, sở thích, điều kiện đưa ra của bên đối tác. Trên cơ sở đú chủ thể lựa chọn phương thức để đạt được ý muốn đú.  

Như vậy, tự do ý chí là ý muốn và lựa chọn phương thức để thể hiện ý muốn trên cơ sở nhận thức được các điều kiện khách quan cũng như như chủ quan. Tuy nhiên ý chí vẫn thuộc chủ quan của chủ thể, là động lực bên trong thúc đẩy chủ thể xác lập hợp đồng do đú thể hiện ý chí là biểu lộ cái bên trong đú ra bên ngoài, làm cho thấy rõ nội dung của ý chí duới hình thức cụ thể.

Ý chí và tự do ý chí là hai mặt của tự nguyện. Để có tự do ý chí phải có độc lập về ý chí và chỉ khi có đủ lí trí mới có sự độc lập về ý chí. Do vậy, chừng nào chủ thể chưa có khả năng, mất khả năng hoặc tạm thời không có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình thì không có tự do ý chí. Vì thế chỉ có người có năng lực hành vi dân sự mới độc lập về ý chí và đủ lí trí để xác lập hợp đồng. 

Điều kiện về tính tự nguyện của hợp đồng có liên quan chặt chẽ đến điều kiện thứ nhất - điều kiện về chủ thể tham gia hợp đồng. Người có năng lực hành vi là người có lí trí, họ nhận thức được hành vi và hậu quả của hành vi đồng thời có khả năng điều khiển hành vi của họ. Họ có khả năng chịu trách nhiệm về hợp đồng đó xác lập và hậu quả do việc xác lập, thực hiện hợp đồng. Nhưng ý chí của chủ thể tham gia quan hệ pháp luật nói chung, quan hệ dân sự nói riêng mà cụ thể là quan hệ hợp đồng phải phù hợp với ý chí của Nhà nước. Vì vậy, ý chí đú phải không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Trong giới hạn bởi hành lang pháp lí các bên tham gia vào hợp đồng tự do thể hiện ý chí của mình  và pháp luật, đạo đức xã hội thể hiện ý chí của nhà nước đó hạn chế tự do ý chí của chủ thể. Sự tự do ý chỉ phải nằm trong khuôn khổ nhất định. Bên cạnh việc chú ý đến quyền lợi của mình, các chủ thể phải hướng tới việc bảo đảm quyền lợi của những người khác cũng như lợi ích của toàn xã hội. Nằm trong mối liên hệ tương ứng giữa quyền và nghĩa vụ, mỗi một chủ thể vừa có quyền tự do hợp đồng vừa có nghĩa vụ tôn trọng pháp luật và đạo đức xã hội. Lợi ích của cộng đồng (được quy định bằng pháp luật) và đạo đức xã hội được coi là “khung giới hạn” ý chí tự do của mỗi chủ thể trong quan hệ hợp đồng. Bộ luật dân sự xây dựng theo hướng bảo vệ tối đa quyền tự do hợp đồng của các chủ thể trong xã hội, bảo đảm tính ổn định của các giao dịch dân sự, thông qua các quy định hạn chế việc tuyên bố vụ hiệu một cách tuỳ tiện các giao dịch dân sự. Trên tinh thần đó, chỉ trong những trường hợp đặc biệt và phải có căn cứ rõ ràng nhà nước mới được phép can thiệp vào ý chí của các bên trong hợp đồng. 

Nguyên tắc tự nguyện buộc các bên giao kết phải được tự do thể hiện ý chí trong việc xác lập, thực hiện hợp đồng và bằng các quy định việc thể hiện ý chí này phải độc lập và có sự thống nhất giữa ý chí và sự thể hiện ý chí đó ra bên ngoài mà không chịu sự tác động nào làm cho ý chí đó bị sai lệch.

Thực tế: không phải hợp đồng nào cũng được xác lập trên cơ sở sự tự nguyện của các chủ thể. Đây là những trường hợp hợp đồng xác lập khi một trong các chủ thể bị ép buộc, đe doạ, lừa dối, nhầm lẫn hoặc tại thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Đó là các trường hợp giao kết hợp đồng thiếu đi sự tự nguyện. Sau đây chúng ta sẽ xem xét từng trường hợp cụ thể.

  1. Điều kiện về hình thức của hợp đồng.

  2. 1.Hợp đồng bằng lời nói: 

Đây là hình thức được các bên trao đổi và xác lập bằng miệng. Các nhà làm luật ghi nhận hình thức lời nói là một trong những phương tiện ghi nhận nội dung thoả thuận về quyền, nghĩa vụ của các bên. Bởi với việc chuyển tải thông tin bằng lời nói, bao gồm cả việc thể hiện tâm lí tình cảm, cách suy xét, đánh giá sự vật, hiện tượng không chỉ chính xác mà còn có khả năng truyền đạt tới đối tượng tiếp nhận một cách nhanh chóng nhất, với dung lượng lớn nhất, tác động trực tiếp đến tâm lí, tình cảm, suy nghĩ của đối tượng tiếp nhận. Lời nói chính là cách thức biểu hiện ý chí của một cá nhân và hình thức hợp đồng bằng lời nói là phương thức thể hiện sự thống nhất ý chí của các chủ thể trong hợp đồng. Hợp đồng bằng lời nói được xác lập bằng một hành động cụ thể chứ không thể dưới dạng không hành động. Im lặng không được coi là sự chấp nhận giao kết hợp đồng bởi con người không thể hiện ý chí của mình một cách rõ ràng thông qua trạng thái này. Tuy nhiên, luật cũng quy định im lặng là sự chấp nhận giao kết nếu như hết có thoả thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết (khoản 2- điều 404- bộ luật dân sự). Hình thức bằng lời nói được các bên lựa chọn trong một số trường hợp nhất định bởi hình thức này chứa đựng những yếu tố bất lợi. Hình thức này chỉ áp dụng trong các hợp đồng có đặc điểm:

Có giá trị nhỏ, phục vụ cuộc sống hàng ngày;

Giữa các bên có độ tin cậy nhất định;

Hợp đồng được thực hiện ngay lập tức và hoàn thành ngay sau thời điểm giao kết trong thời gian tương đối ngắn;

Nội dung các quyền, nghĩa vụ hợp đồng có tính đơn giản, thực hiện một cách nhanh chóng, thuận tiện, không cần thiết có sự cẩn trong quá mức bằng văn bản.

Hợp đồng miệng có hiệu lực tại thời điểm các bên đã trực tiếp thoả thuận với nhau về những nội dung chủ yếu của hợp đồng.

 

Thực tiễn: Trong thực tế loại hợp đồng này được sử dụng tương đối nhiều nhưng chỉ với những mục đích có giá trị nhỏ, phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày, giữa các bên có sự tin cậy nhất định. Song một hiện tượng cũng hay gặp là vì sự tin cậy mà dẫn đến lợi dụng sự tin cậy gây lừa đảo chiếm đoạt tài sản…

  1. 2 Hợp đồng bằng văn bản:

Nội dung của hợp đồng là tổng thể quyền, nghĩa vụ mà các bên phải thực hiện. Hình thức văn bản là dạng thức chứa đựng quyền, nghĩa vụ của các bên. Bộ luật dân sự 2005 không quy định rõ ràng các yếu tố cuả một hợp đồng bằng văn bản nhưng căn cứ vào những điều khoản về nội dung của hợp đồng, vào thời điểm giao kết hợp đồng thì một văn bản phải được lập như một hợp đồng và phải được các bên kí vào văn bản mới có hiệu lực. Điều 124- Bộ luật dân sự có quy định các hình thức giao dịch thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu cũng được coi là giao dịch bằng văn bản. Hợp đồng bằng văn bản được các bên lựa chọn trong các trường hợp:

- Hợp đồng có giá trị lớn;

- Hợp đồng có nội dung quyền, nghĩa vụ phức tạp, phản ánh các quan hệ dân sự phong phú, đa dạng;

- Hợp đồng được thực hiện trong một thời gian dài;

- Giữa các chủ thể trong hợp đồng không có độ tin tưởng.

Hình thức bằng văn bản là hình thức duy nhất mà Nhà nước can thiệp vào bằng những quy định cụ thể. Đối với một số loại hợp đồng nhất định, Nhà nước can thiệp vào sự tự do ý chí bằng những quy định có tính chất bắt buộc đối với hình thức hợp đồng bằng văn bản. Căn cứ vào mức độ can thiệp của Nhà nước vào nguyên tắc tự do thể hiện ý chí của các bên trong hợp đồng mà hợp đồng bằng văn bản được chia thành các loại:

Thứ nhất, hợp đồng bằng văn bản thông thường: hợp đồng loại này chỉ cần lập bằng văn bản thông thường trong đó ghi nhận quyền, nghĩa vụ của các bên là đủ. Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm bên sau cùng kí vào văn bản hợp đồng;

Thứ hai, hợp đồng bằng văn bản có chứng nhận, chứng thực, đăng kí hoặc xin phép: đây là những dạng hợp đồng phần nhiều có đối tượng tài sản phải đăng kí quyền sở hữu, những tài sản có giá trị đặc biệt trong đời sống dân sự không chỉ bởi giá trị vật chất mà bởi chúng còn là tư liệu sản xuất không thể thay thế được (đất đai), là nơi cư trú của con người (nhà ở)…, hợp đồng có tính chất phức tạp dễ xảy ra tranh chấp. 

Hợp đồng dạng này cần có sự quản lí của Nhà nước bởi nó không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống sinh hoạt, sản xuất kinh doanh của các chủ thể mà còn ảnh hưởng lớn đến quyền, lợi ích hợp pháp của bên thứ ba, tác động đến cuộc sống của cộng đồng dân cư, trật tự xã hội.

Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm văn bản hợp đồng được chứng nhận, chứng thực, đăng kí hoặc cho phép.

Thực tiễn: Trong thực tiễn đây là loại hợp đồng được sử dụng nhiều nhất, vì bó đảm bảo tính pháp lý cho các bên tham gia quan hệ hợp đồng. Xong cũng do nhiều qui định của pháp luật mà gây khó khăn cho người thực hiện nên rất dễ các chủ thể thực hiện hợp đồng không biết điều kiện như thế nào thì hợp đồng mới có hiệu lực, nhiều trường hợp mua bán đất chỉ có chữ ký của các bên, mà không được chứng thực, thì lúc đó có mâu thuẫn xảy ra, đưa hợp đồng ra tranh chấp, thì bị tuyên là hợp đồng vô hiệu. như vậy trong thực tế có nhiều trường hợp xảy ra.

  1. 3 Hợp đồng thể hiện bằng hành vi: 

Hợp đồng có thể được xác lập thông qua hành vi nhất định theo quy ước đã định trước.Ví dụ như mua nước ngọt bằng máy tự động, gọi điện thoại tự động… Hợp đồng có thể được xác lập thông qua hình thức này mà không nhất thiết phải có sự hiện diện đồng thời của tất cả các bên tại nơi giao kết. Hiệu lực của hợp đồng phát sinh tại thời điểm một hoặc các bên chuyển giao cho nhau đối tượng của hợp đồng.

Thực tiễn: Hiện nay loại hợp đồng này được sử dụng tương đối ít, chưa phổ biến, một phần là họ quen với hợp đồng bằng lời nói hay văn bản, mà một phần là do tính chất yếu kém của nền kinh tế.

Vậy như đã phân tích nguyên tắc “tự do hợp đồng” là nguyên tắc xuyên suốt toàn bộ một thoả thuận hợp đồng. Sự thoả thuận của các bên trong hợp đồng phải dựa trên sự tự do ý chí và đồng thuận của các bên. Chỉ khi nào sự tự do ý chí và sự đồng thuận được thể hiện dưới một hình thức nhất định mới tồn tại hợp đồng. Hợp đồng không bao giờ có trong ý tưởng hay suy nghĩ của con người mà nó phải được thể hiện dưới một dạng thức nhất định. Khoa học pháp lí đã bước đầu có sự tiếp cận và có những lí giải về hình thức của hợp đồng dựa trên những cơ sở như vậy.

Điều  401- Bộ luật dân sự chưa đưa ra khái niệm về hình thức của hợp đồng mà chỉ  thừa nhận hợp đồng tồn tại dưới 3 dạng thức: lời nói, văn bản hay bằng hành vi cụ thể.  Không phải mọi sự thống nhất ý chí nào cũng là hợp đồng mà chỉ có sự thống nhất ý chí làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự mới chịu sự điều chỉnh của pháp luật hợp đồng. Thực chất sự thống nhất ý chí của chủ thể có thể được chúng ta nhận biết ra sao hay nó được thể hiện như thế nào thì mỗi cá nhân lại có một cách thức riêng để biểu đạt suy nghĩ của mình. Sự thống nhất ý chí của ít nhất hai chủ thể trong quan hệ hợp đồng phải được thể hiện dưới những hình thức nhất định, đảm bảo khả năng nhận biết khách quan. Khi đó pháp luật mới bảo vệ cho quyền, lợi ích hợp pháp của các bên khi chúng bị vi phạm.

Hợp đồng không thể là những ý tưởng riêng rẽ của một cá nhân nào đó mà đó chính là sự đồng thuận của các chủ thể có ý chí độc lập, tồn tại dưới một dạng ghi nhận thông tin nào đó. Dạng thức ghi nhận thoả thuận hợp đồng không chỉ có ý nghĩa trong việc xác định đã tồn tại hợp đồng hay không, hợp đồng đã xác lập bao gồm những nội dung gì mà còn nhằm đối kháng với bên thứ ba. Một hợp đồng đã được giao kết tức là các bên phải có nghĩa vụ thực hiện đúng thoả thuận. Bất kì sự thay đổi hoặc không thực hiện đúng thoả thuận mà không được sự đồng ý của bên kia cũng là nguyên nhân để bên vi phạm phải gánh chịu những hậu quả bất lợi.

Quan điểm của các nhà lập pháp Việt Nam cũng tiếp cận theo phương hướng này. Đối với một số loại hợp đồng cụ thể, pháp luật Việt Nam quy định phải tuân theo những yêu cầu hình thức bằng văn bản cùng một số thủ tục như hợp đồng phải có công chứng, chứng thực, phải được đăng kí… là yêu cầu bắt buộc. 

Đoạn 2, khoản 2, Điều 401- Bộ luật dân sự quy định: “hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Đó là trường hợp hình thức của hợp đồng là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Sự thống nhất ý chí của các bên chưa đủ để hợp đồng có hiệu lực pháp luật mà hợp đồng phải tuân thủ theo một hình thức nhất định theo quy định cuả pháp luật. Nếu các bên không tuân theo thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn, quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu (điều 134- Bộ luật dân sự). Như vậy, trong trường hợp hợp đồng vi phạm hình thức , Toà án sẽ không mặc nhiên tuyên bố ngay hợp đồng vô hiệu, mà theo yêu cầu của một hoặc các bên  Toà án sẽ định cho các bên một thời hạn hợp lí (theo NQ 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 của HĐTP Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình thì thời hạn này là một tháng, kể từ ngày Toà án ra quyết định). Trong thời hạn đó nếu các yêu cầu về hình thức được thực hiẹn đầu đủ, hợp đồng giao kết sẽ có hiệu lực pháp luật. Quá thời hạn trên mà các bên không đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để thực hiện các yêu cầu về hình thức thì Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu kể từ thời điểm xác lập. Điều này dẫn đến một thực tế đó là: Điều 134 không xác định rõ bên nào là bên có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức mà chỉ quy định một cách chung chung là “theo yêu cầu của một hoặc các bên”. Từ quy định này có thể hiểu là bên có lỗi làm cho hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện về hình thức cũng có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Lẽ ra bên có lỗi phải hoàn tất thủ tục về hình thức thì lại có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu do lỗi của chính bản thân mình. Trong khi đó, theo nguyên tắc chung, đối với các hợp đồng vô hiệu tương đối chỉ bên bị xâm phạm mới có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu mà thôi. Điểm mâu thuẫn này sẽ dẫn đến hệ quả là bên có lỗi làm cho hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện về hình thức nếu thấy có lợi thì thực hiện hợp đồng nếu thấy bất lợi thì đưa ra lí do hợp đồng không tuân thủ hình thức để trốn tránh nghĩa vụ thực hiện hợp đồng.

Điều kiện về hình thức chỉ áp dụng đối với một số hợp đồng cụ thể như: hợp đồng mua bán bất động sản; hợp đồng thuê nhà; các hợp đồng liên quan đến quyền sử dụng đất; hợp đồng thế chấp;… Một hợp đồng khi không tuân thủ một trong các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng thì coi như hợp đồng đó chưa được xác lập, không phát sinh hệ quả pháp lí và do đó không làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quyền,nghĩa vụ dân sự. Khi không đáp ứng đầy đủ các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng thì theo quy định của pháp luật sẽ không làm phát sinh hiệu lực với các bên và theo yêu cầu sẽ bị Toà án tuyên vô hiệu. Mặc dù sự vô hiệu là do vi phạm điều kiện về chủ thể; điều kiện về nội dung, mục đích của hợp đồng; điều kiện về sự tự nguyện hay điều kiện về hình thức của hợp đồng và sự vô hiệu đó là tuyệt đối hay vô hiệu tương đối đều dẫn đến hậu quả pháp lí như nhau. Khi nói rằng hợp đồng đó vô hiệu tuyệt đối hay tương đối không có nghĩa là hợp đồng ấy bất hợp pháp nhiều hay ít mà chỉ có ý nghĩa xác định các quyền lợi của một nhóm người hay quyền lợi của một người và đều phải chịu một hậu quả pháp lí chung

KẾT LUẬN

Hợp đồng là một trong những chế định pháp lí quan trọng nhất của Luật dân sự và nếu như coi sự thống nhất ý chí của các bên là điều kiện cần để hình thành hợp đồng thì việc quy định các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng chính là điều kiện đủ để hợp đồng có hiệu lực ràng buộc các bên giao kết, là căn cứ để tuyên hợp đồng vô hiệu hay không. Mặc dù chế định hợp đồng ở Việt Nam còn mới mẻ so với các nước khác trên thế giới nhưng việc ra đời Bộ luật dân sự 1995 và được sửa đổi, bổ sung trong Bộ luật dân sự 2005 thì chế định hợp đồng đang dần được pháp điển hoá và ngày càng được hoàn thiện hơn.

Traloitructuyen.com cũng giúp giải đáp những vấn đề sau đây:

  • Các đề tài tiểu luận về luật dân sự
  • Cách làm bài tiểu luận môn luật dân sự
  • Tiểu luận về luật dân sự 2015
  • Tiểu luận luật dân sự vệ quyền thừa kế
  • Lợi mở đầu Tiểu luận ngành luật dân sự
  • De tài khóa luận luật dân sự
  • Bài tiểu luận về luật hợp đồng dân sự
  • Tiểu luận môn luật dân sự 2
See more articles in the category: Tiểu luận