TIỂU LUẬN: Điều kiện kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 | Trả lời trực tuyến

Or you want a quick look: A. MỞ ĐẦU

Traloitructuyen.com cũng giúp giải đáp những vấn đề sau đây:

  • Tiểu luận Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
  • Kết luận tiểu luận Luật hôn nhân và gia đình
  • Bài Tiểu luận luật hôn nhân và gia đình
  • Tiểu luận pháp luật đại cương về hôn nhân và gia đình
  • Kết luận Luật hôn nhân và gia đình
  • Tiểu luận pháp luật đại cương Luật hôn nhân và gia đình
  • Đề tài Tiểu luận về hôn nhân gia đình
  • Đề tài tiểu luận luật hôn nhân và gia đình
 
 
 
 
 
 
 
TIỂU LUẬN: Điều kiện kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

TIỂU LUẬN: Điều kiện kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014


MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU

Mỗi con người trên thế giới này ai sinh ra và lớn lên cũng phải trải qua sinh, lão, bệnh, tử thì mới có thể được trải nghiệm được trọn vẹn một cuộc đời. Nếu thiếu đi một thứ thì cuộc sống chưa được trọn vẹn và cũng chưa nếm được hương vị đầy đủ của cuộc sống. Trong cuộc sống đó, không bao giờ chúng ta có thể tồn tại một cách độc lập và không có sự gắn kết với một ai cả hay nói cách khác là chúng ta không sống một mình. Lúc nhỏ chúng ta sống với cha mẹ, ông bà, chúng ta có bạn bè chơi chung chúng ta gắn kết với bạn bè. Những mối quan hệ mà chúng ta thiết lập luôn tỉ lệ thuận với thời gian, thời gian trôi qua càng nhiều thì các mối quan hệ đó được xác lập ngày càng nhiều. Và sự gắn kết giữa
chúng ta và các chủ thể khác trong mối quan hệ đó tùy theo những mối quan hệ đó là gì mà chúng mang một tính chất khác nhau. Nhưng có một điều đặc biệt  rằng đa số chúng ta khi đến độ tuổi trưởng thành sẽ xác lập một mối quan hệ có tính chất đặc biệt được gọi là hôn nhân.
Khi quan hệ hôn nhân được xác lập sẽ làm nảy sinh rất nhiều điều ý nghĩa, bởi vì hôn nhân chính là nền tảng của việc hình thành nên gia đình. Mà bản chất cấu tạo của xã hội chính là gia đình, gia đình là một xã hội thu nhỏ và gia đình chính là tế bào để hình thành nên xã hội. Gia đình được hình thành nên từ nền tảng hôn nhân và hôn nhân phát sinh sau khi có mội sự kiện được gọi là “kết hôn”. Kết hôn là việc thường tình của nam nữ khi đến độ tuổi nhất định từ thời xa xưa đến giờ. Minh chứng là ngay từ xa xưa ông bà ta đã có câu tục ngữ: “trai lớn dựng vợ, gái lớn gả chồng”. Và ngày nay, kết hôn được xem là quyền thiêng  liêng của mỗi cá nhân và được quy định tại điều 36 Hiến pháp năm 2013. Nhưng quan niệm kết hôn mỗi thời kỳ lại mỗi khác. Trước khi có sự xuất hiện của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, nam nữ chỉ cần chung sống như vợ chồ ng được công nhận là vợ chồng và mối quan hệ giữa họ được gọi là “hôn nhân thực tế”. Trong thời kỳ này nam nữ chỉ cần tổ chức lễ cưới theo phong tục hoặc theo nghi thức tôn giáo thì họ được xem như là đã kết hôn. Nhưng từ khi có sự xuất hiện của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và sau đó là Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì việc kết hôn của nam nữ phải được đăng ký tại cơ quan nhànước có thẩm quyền thì mới được nhà nước công nhận và bảo vệ. Nhưng để được đăng ký kết hôn thì người đăng ký đó phải đảm bảo được những điều kiện nhất định mà pháp luật đã quy định. Để việc đăng ký kết hôn là hợp pháp thì người đăng ký kết hôn phải đảm bảo những điều kiện nhất định đã được luật định. Nhưng không phải ai cũng nắm rõ và hiểu rõ về những điều kiện này.

Chính vì lý do đó mà tôi đã chọn đề tài “Điều kiện kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014” để là đề tài nghiên cứu cho tiểu luận kết thúc môn học của mình, để giúp mọi người hiểu rõ hơn và nắm bắt được những quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn. Trong quá trình nghiên cứu khó tránh mắc phải sai sót, kính mong thầy cô và các bạn góp ý để tôi có thể sửa chữa và hoàn chỉnh đề tài. Xin chân thành cảm ơn!

B. NỘI DUNG


I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM


Dưới góc độ khoa học pháp lý thì hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi thực hiện các quy định của pháp luật về kết hôn tại cơ quan đăng ký kết hôn nhằm chung sống với nhau và xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc. Nói một cách ngắn gọn thì hôn nhân được hiểu là sự liên kết giữa nam và nữ trong quan hệ vợ chồng. Sự liên kết này không phải chỉ là việc riêng tư giữa hai cá thể mà nó còn là mối quan tâm đặc biệt của toàn xã hội. Do đó mà hôn nhân trở thành đối tượng điều chỉnh của pháp luật của các quốc gia trên thế giới.
Theo sự giải thích từ ngữ của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn” 1. Nếu hiểu một cách dầy đủ thì kết hôn là sự kiện pháp lý được tiến hành tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền nhằm xác lập quan hệ vợ chồng giữa nam và nữ, khi hai bên nam nữ tuân thủ quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn.


II. ĐIỀU KIỆN KẾT HÔN

Điều kiện kết hôn trước hết được hiểu là những điều kiện đã được luật định, khi đảm bảo được những điều kiện đó thì nam nữ mới được đăng ký kết hôn và việc kết hôn của nam và nữ mới được nhà nước công nhận và bảo vệ. Điều kiện kết hôn được pháp luật quy tại điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000 và được quy định tại điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.


1. Tuổi kết hôn

Tuổi kết hôn có thể được hiểu là một độ tuổi mà khi một người đạt đến độ tuổi đó thì được phép lấy vợ/chồng và nếu đạt đọ tuổi đó thì mới được đăng ký kết hôn, lúc đó hôn nhân mới được thừa nhận là hợp pháp. Độ tuổi kết hôn ở  mỗi nước được quy định khác nhau và ngay cả bản thân nước ta mỗi thời kỳ hác nhau cũng có quy định khác nhau về tuổi kết hôn. Nhưng nhìn chung thì phần
1 Điều  Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 lớn các quốc gia đều quy định độ tuổi kết hôn tối thiểu là 18 tuổi, tuy nhiên nhiều nước cho phép độ tuổi kết hôn tối thiểu sớm hơn nếu có sự đồng ý của
cha/mẹ hoặc luật pháp, hoặc trong trường hợp mang thai (nữ). Ở Việt Nam mỗi thời kỳ khác nhau quy định về độ tuổi kết hôn khác  nhau. Trong thời kỳ phong kiến, độ tuổi kết hôn trong các triều đại khác nhau được quy định khác nhau. Ví dụ nhưBộ luật Gia Long quy định độ tuổi kết hôn tối thiểu của nam là 16 tuổi, nữ 14 tuổi. Dưới thời Pháp thuộc thì tuổi kết hôn tối thiểu đã được tăng lên đối với nam là 18 tuổi, nữ là 15 tuổi (Bộ dân luật Bắc Kỳ 1931 và Bộ dân luật Trung Kỳ năm 1936). Từ khi Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời thì cả ba đạo luật về hôn nhân và gia đình là: Luật
Hôn nhân và gia đình năm 1959,Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 và Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đều quy định độkết hôn tối thiểu đối với nam là 20 tuổi và đối với nữ là 18 tuổi.Đến Luật Hôn nhân và gia đình năm2014, độ tuổi kết hôn của nam là từ đủ 20 tuổi trở lên và của nữ là từ đủ 18 tuổi trở lên, điều này được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 8.
Ở đây chúng ta thấy có sự khác nhau về tuổi kết hôn giữa Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Và sự khác nhau này cũng dẫn đến thời điểm được đang ký kết hôn của nam và nữ theo sự điều chỉnh của hai bộ luật này là khác nhau. Ví dụ một người nữ sinh ngày
01/01/1996, nếu chiếu theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì đến ngày 02/01/2013 người đó sẽ có quyền kết hôn. Nhưng cũng người đó nếu chiếu theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 8Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì đến ngày 01/01/2014 người đó mới có quyền đăng ký kết hôn.

Sở dĩ pháp luật có quy định khác nhau về độ tuổi kết hôn giữa nam và nữ đều xuất phát từ các nghiên cứu khoa học.Mục đích chính của việc quy định độ tuổi kết hôn tối thiểu ở đây là để đảm bảo sức khỏe cho nam và nữ, đồng thời bảo đảm cho họ có đủ khả năng nhận thức để thực hiện trách nhiệm làm cha,
làm mẹ, làm vợ, làm chồng của mình, đảm bảo cho cuộc sống của gia đình được ấm no, hạnh phúc, bền vững. Ngoài ra việc quy định độ tuổi tối thiểu trong việc kết hôn còn nhằm đảm bảo cho con cái của vợ chồng sinh ra được khỏe mạnh và phát triển tốt cả về thể chất lẫn trí tuệ. Bên cạnh đó việc quy định độ tuổi kết hôn tối thiểu của nữ giới là từ đủ 18 tuổi để đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp
của người vợ sau khi kết hôn (quyền yêu cầu ly hôn, quyền tự quyết định các vấn đề liên quan đến bản thân,…).
Pháp luật nước ta có quy định độ tuổi kết hôn tối thiểu nhưng lại luật không có quy định độ tuổi tối đa trong việc kết hôn và cũng như không quy định về độ tuổi chênh lệch giữa vợ và chồng khi kết hôn.
Tuổi kết hôn được quy định dựa trên những căn cứ về phát triển tâm sinh lý, về khả năng nhận thức, khả năng lao động và duy trì cuộc sống, điều kiện kinh tế, xã hội. Theo đó mỗi quốc gia thường dựa trên sự phát triển tâm sinh lý của công dân nước mình cũng như điều kiện phát triển kinh tế xã hội mà đưa ra quy định cụ thể về độ tuổi kết hôn. Vì có sự khác nhau về các điều kiện trên giữa các quốc gia mà có sự khác nhau về độ tuổi kết hôn tối thiểu giữa các quốc gia đó. Ví du như ở Trung Quốc thì độ tuổi kết hôn là nam 22 tuổi, nữ 20 tuổi;  Thụy Sĩ nam là 17 tuổi, nữ là 16 tuổi; Indonexia: nữ là 16 tuổi, nam là19 tuổi…
Như vậy việc quy định của pháp luật về độ tuổi kết hôn là rất quan trọng và có ý nghĩa to lớn trong việc xác lập quan hệ hôn nhân.


2. Sự tự nguyện của hai bên kết hôn

Bởi vì kết hôn sẽ tạo ra mối liên kết lâu dài giữ một người nam và một người nữ nhằm xây dựng gia đình, sinh và nuôi dạy con cái, nên để đảm bảo lợi ích của vợ chồng, của con cái, đảm bảo cho hôn nhân được tồn tại lâu dài, bền vững thì rất cần sự hoàn toàn tự nguyện giữa các bên khi kết hôn. Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định”. Việc tự nguyện ở đây được thể    hiện ở chỗ họ mong muốn được gắn bó với nhau, cùng nhau chung sống nhằm thỏa mãn nhu cầu tình cảm giữa hai người. Đông thời đó nam nữ tự quyết đối với việc kết hôn của mình một cách chủ quantheo như ý muốn của họ và họ không chịu bất kỳ sự ép buộc nào từ phía còn lại hay bên ngoài.
Tự nguyện cũng chính là một trong những nguyên tắc cơ bản của chế đọ hôn nhân nước ta. Tự nguyện có thể hiểu là tự mình làm việc gì đó theo ý chí của bản thân mà không bị ép buộc, ràng buộc hay đe dọa. Trong cuộc sống hôn nhân để đảm bảo cho cuộc sống được hạnh phúc bền lâu thì một trong những điều kiện căn bản là việc kết hôn phải do ý chí tự nguyện của hai bên.
Đồng thời để đảm bảo sự tự nguyện trong kết hôn pháp luật đã có quy  định tại điểm b, khoản 2, Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cấm “cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn”.
Theo việc giải thích từ ngữ tại điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì “Cưỡng ép kết hôn là việc đe dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngược đãi, yêu sách của cải hoặc hành vi khác để buộc người khác phải kết hôn trái với ý muốn của họ”.Hành vi cưỡng ép kết hôn có thể do một bên kết hôn buộc bên còn lại phải kết hôn với mình, cũng có thể là do bên thứ ba mà một trong hai bên bị lệ thuộc buộc hai bên nam nữ phải kết hoon trái với nguyện vọng của họ. Để một hành vi được coi là cưỡng ép kết hôn thì hành vi đó phải có tính chất quyết liệt và làm cho người bị cưỡng ép không có sự lựa chọn nào khác phải kết hôn trái với ý muốn của họ. Do đó nếu một người bị đe dọa nhưng không có căn cứ để sự đe dọa đó xả ra hoặc một người do bị dụ dỗ mà đã đồng ý kết hôn thì không được coi là cưỡng ép kết hôn.
Lừa dối kết hôn là một trong hai người đã có hành vi để che đậy sự thật về nhân cách hoặc lý lịch tư pháp đặc biệt xấu, làm cho người kia lầm tưởng và kết hôn với mình. Chỉ khi người kết hôn có hành động hoặc lời nói để che giấu sự thật về nhân cách hoặc lý lịch tư pháp đặc biệt xấu thì mới được xem là lừa dối để kết hôn. Các trường hợp người kết hôn nói sai sự thật về vị trí công tác, về thu nhập của bản thân, về tài sản của gia đình mình,… thì vẫn không bị coi là lừa dối kết hôn.

Cản trở kết hôn là việc đe dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngược đãi, yêu sách của cải hoặc hành vi khác để ngăn cản việc kết hôn của người có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật. Ở đây hành vi cản trở là hành vi của một bên thứ ba nhằm mục đích không cho nam nữ được thực hiện nguyện vọng kết hôn của mình.
Bên cạnh đó pháp luật cũng đòi hỏi việc kết hôn phải do chính người kết hôn quyết định trên cơ sở mong muốn kết hôn của họ. Chính vì thế mà pháp luật cũng không cho phép cử người đại diện trong kết hôn. Vì lý do trên mà những người bị mất năng lực hành vi dân sự thìkhông được kết hôn, do không xác định được sự tự nguyện của họ nên.
Chính vì vậy mà pháp luật đòi hỏi việc kết hôn phải xuất phát từ sự tự nguyện của hai bên kết hôn. Đây là một trong những yếu tố quan trọng nhằm đảm bảo hạnh phúc, sự tồn tại lâu dài của gia đình và để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các bên khi kết hôn.

READ  Tiểu luận môn Quản trị xung đột: Phương pháp và kỹ năng giải quyết xung đột - Traloitructuyen


3. Người kết hôn không phải là người mất năng lực hành vi dân sự

Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì người kết hôn phải là người “không bị mất năng lực hành vi dân sự”.
Điều kiện để coi một người bị mất năng lực hành vi dân sự được quy định tại khoản 1 điều 22 Bộ luật Dân sự năm 2015 như sau: “Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên
quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần.
Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự”.

Như vậy nếu một người mà bị mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất đi khả năng nhận thức, làm chủ hành vi của mình thì khi bị tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích hoặc theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức hữu
quan thì người đó không đủ điều kiện để kết hôn.
Sở dĩ pháp luật quy định người mất năng lực hành vi dân sự thì không được phép kết hôn xuất phát từ tính nhân đạo để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng, của con cái và của các thành viên khác trong gia đình. Bởi vì sau khi kết hôn thì họ phải thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm của một người
vợ, người chồng đối với người còn lại và trách nhiệm, nghĩa vụ của người cha, người mẹ đối với các con của mình. Vì thế nếu một người mất năng lực hành vi dân sự mà được phép kết hôn thì sau khi kết hôn họ không thể hoàn thành trách nhiệm và nghĩa vụ của mình phát sinh do việc kết hôn. Nếu cho họ được phép kết hôn thì sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của vợ hoặc chồng họ và của con cái họ. Mặt khác nếu một người mất năng lực hành vi dân sự mà kết hôn thì việc kết hôn của họ không thể nào mà xác định được là họ có tự nguyện kết hôn hay không. Bởi vì họ không có khả năng nhận thức, không có khả năng là chủ hành vi của mình thì sự thể hiện mong muốn tự nguyện kết hôn của họ
cũng là bất khả thi. Chính vì thế mà người mất năng lực hành vi dân sự không thể kết hôn.
Nhưng trong thực tế vẫn tồn tại nhiều trường hợp người mất năng lực hành vi dân sự nhưng vẫn chưa bị tòa án tuyên bố là mất năng lực hành vi dân sự do chưa có yêu cầu tuyên người đó mất năng lực hành vi dân sự từ những bên có liên quan. Như vậy khi có người tự nguyện kết hôn với này này thì phải giả quyết việc này như thế nào? Xét về mặt lý luận thì không thể chấp nhận yêu cầu đăng ký kết hôn trong trường hợp này.Vì người mất năng lực hành vi dân sự không thể thể hiện ý chí của mình đối với sự tự nguyện kết hôn nên họ không đủ điều kiện để được kết hôn.

Những đạo luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, 1986 và 2000 đều cấm người mất năng lực hành vi dân sự kết hôn. Nhưng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì không cấm họ kết hôn mà chỉ xem là họ không có đủ điều kiện để được kết hôn nhằm tránh gây tâm lý nặng nề cho những người thân của Việc kết hôn không thuộc các trường hợp cấm kết hôn heo quy định tại điểm d khoản 1 điều 8 và khoản 2 điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì có 4 trường hợp cấm kết hôn.


a. Kết hôn giả tạo

Theo sự giải thích từ ngữ tại khoản 1 điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì: “Kết hôn giả tạo là việc lợi dụng kết hôn để xuất cảnh, nhập cảnh,   cư trú, nhập quốc tịch Việt Nam, quốc tịch nước ngoài; hưởng chế độ ưu đãi của  Nhà nước hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích xây dựng gia đình”.
Mục đích chính của hai bên nam nữ khi kết hôn và xác lập quan hệ hôn nhân chính là cùng nhau xây dựng gia đình, thỏa mãn nhu cầu tình cảm giữa vợ và chồng. Và sau khi kết hôn thì vợ chồng sẽ thực hiện các chức năng của gia đình như chức năng sinh đẻ, chức năng giáo dục và chức năng khinh tế. Nhưng mục đích chính của việc kết hôn giả tạo lại hướng đến việc lợi dụng kết hôn để xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú, nhập quốc tịch Việt Nam, quốc tịch nước ngoài, để hưởng các chế độ ưu đãi từ nhà nước hoặc nhằm các mục đích khác không phải à mục đích xây dựng gia đình. Chính vì thế mà pháp luật nghiêm cấm việc kết hôn giả tạo để duy trì tính chất tốt đẹp của hôn nhân, để tránh việc hôn nhân
biến thành phương tiện hưởng lợi của một bộ phận người. Việc kết hôn giả tạo không những phá hủy đi tính chất tốt đẹp của hôn nhân mà còn gây ảnh hưởng tiêu cực đến các vấn đề kinh tế - xã hội của các quốc gia. Vì những lý do trên mà Luật Hôn nhân và gia đình nước ta cấm kết hôn giả tạo.

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng có quy định cấm kết hôn giả tạo tại khoản 2 điều 4 của luật này. Nhưng tại điều 9 định về điều kiện kết hôn và điều 10 quy định về các trường hợp cấm kết hôn thì lại không có quy định việc kết hôn giả tạo thuộc trường hợp cấm kết hôn. Để giải quyết thiếu sót trên
thì trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định kết hôn giả tạo là một trong những trường hợp cấm kết hôn tại được quy dịnh tại điều 8 của luật này.
Như vậy khi tiến hành đăng ký kết hôn cho hai bên nam nữ đăng ký kết hôn mà cơ quan đăng ký kết hôn có cơ sở để cho rằng việc kết hôn đó là giả tạo nhằm mục đích khác ngoài mục đích xây dựng gia đình thì có quyền từ chối đăng ký kết hôn cho họ. Và theo quy định tại điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì đối với những trường hợp đã đăng ký kết hôn mà có cơ sở cho rằng việc kết hôn trên là giả tạo, thì theo yêu cầu của những người có quyền tòa án sẽ hủy việc kết hôn trái pháp luật trên.


b. Cấm người đang có vợ hoặc có chồng kết hôn

Hôn nhân một vợ một chồng là nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân gia đình của Việt Nam và được ghi nhận tại khoản 1 điều 2 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Để đảm bảo việc thực hiện nguyên tắc này cần phải có quy định cụ thể nhằm xóa bỏ chế độ đa thê đã tồn tại trước đó. Kể từ khi ra đời Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 đã công nhận nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng và quy định về cấm kết hôn đối với những người đang có vợ hoặc có chồng.
Người đang có vợ hoặc có chồng được hiểu là những người đã kết hôn với một người khác theo đúng quy định của pháp luật mà quan hệ của họ chưa chấm dứt do một bên chết hoặc một bên do tòa án tuyên bố là đã chết hoặc do ly hôn.
Đối với trường hợp nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng trước ngày

11. 3/1/1987 và đang chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được xác
định là người đang có vợ hoặc có chồng

2. Đối với những người đã kết hôn mà việc kết hôn của họ vi phạm điều kiệnkết hôn thì việc kết hôn của họ là trái pháp luật và họ không phải là vợ chồng trước pháp luật. Như vậy đối với những người kết hôn trái pháp luật họ không được xem là đang có vợ hoặc có chồng và vì thế họ không thuộc trường hợp
cấm kết hôn. Nhưng chỉ khi có quyết định của tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật của họ có hiệu lực thì họ mới có quyền đăng ký kết hôn với người khác.
Theo đó cơ quan đăng ký kết hôn có quyền từ chối đăng ký kết hôn cho họ khi  chưa có quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật của tòa án.
Đối với trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng trong thời điểm từ ngày 3/1/1987 đến nay mà không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng và đương nhiên họ không thuộc trường hợp cấm kết hôn và họ có quyền đăng ký với người khác mà không bị cơ quan đăng ký kết hôn từ chối. Nhưng trên thực tế khi đăng ký kết hôn cho họ cán bộ hộ tịch gặp phải sự ngăn cản hoặc đe dọa từ phía người đã hoặc đang chung sống như vợ chồng với người có yêu cầu đăng ký kết hôn. Vì vậy, theo quy định của pháp luật thì để có thể đăng ký kết hôn thì người đang chung sống như vợ chồng với người khác có quyền yêu cầu tòa án xem xét và tuyên bố không công nhận hai bên chung sống là vợ chồng. Theo đó ta thấy quyết định của tòa án chính là cơ sở pháp lý để một trong hai bên chung sống như vợ chồng có quyền được kết hôn với người khác.
Mặc dù chế độ hôn nhân của Việt Nam là hôn nhân một vợ một chồng nhưng trên thực tế nước ta vẫn còn tồn tại một chồng hai vợ hoặc một vợ hai chồng. Ở đây chính là trường hợp cán bộ, bộ đội miền Nam đã có vợ hoặc chồng ở miền Nam, tập kết ra Bắc (năm 1954) lại lấy vợ hoặc chồng khác. Theo hướng dẫn của Thông tư số 60/TATC ngày 22/2/1978 của Tòa án nhân dân tối cao về
Hướng dẫn giải quyết tranh chấp về hôn nhân và gia đình của cán bộ, bộ đội có
2 Xem điểm a mục 3 Nghị quyết số 35/2000/NQ/QH10, ngày 9/6/2000, của quốc hội khóa X về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình. vợ, có chồng trong Nam, tập kết ra Bắc lấy vợ hoặc lấy chồng khác thì đây là trường hợp đặc biệt và quyền và lợi ích của tất cả các bên đều được pháp luật bảo vệ.
Trong thực tế, hiện nay vẫn có nhiều trường hợp người đang có vợ hoặc chồng chung sống như vợ chồng với người khác một cách công khai hoặc lén lút và đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự tan vỡ của một gia đình, gây ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội. Luật Hôn nhân và gia đình có quy định cấm người đang có vợ hoặc có chồng sống chung với người khác như vợ chồng nhưng lại thiếu cơ chế giám xác và xử lý đối với các trường hợp vi phạm. Vì thế cần có các biện pháp để xử lý các trường hợp trên.


c.Cấm những người cùng dòng máu về trực hệ hoặc những người có họ trong phạm vi ba đời kết hôn với nhau


Quy định trên xuất phát từ kết quả nghiên cứu khoa học về huyết học và khảo sát thực tế nhằm đảm bảo sức khỏe cho con của vợ chồng được sinh ra khỏe mạnh không mắc phải các bệnh tật và dị dạng do quan hệ tính giao cận huyết gây ra. Và nguyên tắc trên cũng xuất phát từ việc đảm bảo phong tục, tập quán và thuần phong mỹ tục.
Theo sự giải thích từ ngữ tại khoản 17 điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì “Những người cùng dòng máuvề trực hệ là những người có quan hệ huyết thống, trong đó, người này sinh ra người kia kế tiếp nhau”. Như vậy  theo quy định của pháp luật thì những trường hợp cấm kết hôn ở đây bao gồm: cha, mẹ với con; ông bà với cháu nội, cháu ngoại; cụ với các chắt nội, chắt
ngoại,…
Và theo sự giải thích từ ngữ tại khoản 18 điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì“Những người có họ trong phạm vi ba đời là những người cùng một gốc sinh ra gồm cha mẹ là đời thứ nhất; anh, chị, em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha là đời thứ hai; anh, chị, em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì là đời thứ ba”. Theo đó các trường hợp cấm két hôn ở đây bao gồm: anh chị em ruột với nhau; bác ruột, cậu ruột, chú ruột với cháu gái; cô ruột, dì ruột với cháu trai; anh chị em con chú, con bác, con cô, con dì, con cậu với nhau.


d. Cấm người là cha hoặc mẹ nuôi với con nuôi hoặc người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng kết hôn với nhau

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định đây là trường hợp cấm kết hôn nhằm mục đích ổn định các mối quan hệ trong gia đình và ngăn chặn hiện tượng lợi dụng mối quan hệ phụ thuộc mà có thể xảy ra hành vi cưỡng ép kết hôn.Quy định này nhằm đảm bảo vấn đề đạo đức và thuần phong mỹ tục trong quan hệ hôn nhân và gia đình.
Những người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi là những người trước đây đã tồn tại quan hệ nuôi con nuôi hợp pháp nhưng việc nuôi con nuôi của họ đã được tòa án ra quyết định chấm dứt.
Những người đã từng là cha chồng với condâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng là những người đã từng tồn tại quan hệ cha - con, mẹ - con, trên cơ sở của quan hệ hôn nhân nhưng  nay quan hệ hôn nhân đó đã chấm dứt.


5. Hai người kết hôn phải không cùng giới tính

Đối với vấn đề này chúng ta có thể thấy được rằng nhằm bắt kịp với thực trạng của xã hội hiện tại thì Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã có quy định khác với Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 về vấn đề giới tính của hai người kết hôn. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã không còn quy định “cấm” hai người có cùng giới tính kết hôn mà thay vào đó là việc nhà nước “không thừa
nhận” hôn nhân giữa những người có cùng giới tính. Quy định không cấm kết hôn giữa những người đồng giới này xuất phát từ quan điểm: kết hôn là quyền tự do cơ bản của công dân, là một trong các
quyền cơ bản của con người, công dân có quyền lựa chọn kiểu hôn nhân phù hợp với mình pháp luật tôn trọng và bảo vệ các quyền đó. Việc Nhà nước không
thừa nhận hôn nhân giữa những người đông giới xuất phát từ chức năng duy trìnòi giống của hôn nhân và xuất phát từ việc nếu công nhận hôn nhân đồng giới cũng có nghĩa nhà nước đã trao quyền cho họ, việc đó buộc nhà nước phải có những chính sách để bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của họ, cũng như có những sự điều chỉnh trong những quy định của pháp luật nước mình cho phù hợp với việc coong nhận và việc này sẽ gây ra một sự xáo trộn rất lớn. Chính vì các lý do trên mà nước ta không cấm cũng như không công nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính.
Vì vậy, khi hai người cùng giới tính yêu cầu đăng ký kết hôn thì cơ quan đăng ký kết hôn sẽ từ chối đăng ký. Trong trường hợp hai người cùng giới chung sống như vợ chồng nhưng sau đó chấm dứt việc chung sống, nếu có tranh chấp về tài sản thì giải quyết như đối với các trường hợp nam nữ chung sống
như vợ chồng.
Trên thế giới hiện nay có một số quốc gia đã thừa nhận việc kết hôn đồng giới như Hà Lan, Thụy Điển, Na Uy, Bỉ, Thụy Sỹ, Canada,… Hiện nay các nước có xu hướng thừa nhận hon nhân đồng giới có xu hướng ngày càng tăng.

READ  Cách viết tiểu luận phương pháp nghiên cứu khoa học từ A - Z

C. KẾT LUẬN


Từ những phân tích trên về điều kiện kết hôn chúng ta có thể thấy được rằng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã có sự điều chỉnh và hoàn thiện các quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn cho phù hợp với thực tiễn nước ta so với những quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Như vậy để việckết hôn trong thời điểm này không trái với các quy định của pháp luật thì hai bên khi đăng ký kết hôn phải đảm bảo được đầy đủ các điều kiện kết hôn được quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Mong rằng những phân tích trên về điều kiện kết hôn phần nào giúp mọi người hiểu rõ về nó và vận dụng vào thực tế và tránh được việc kết hôn trái pháp luật.

1.TÀI LIỆU THAM KHẢO


Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình, Trường Đại học kiểm sát Hà Nội, NXB

2.Chính trị quốc gia – Sự thật.

Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000.
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014.

D.4.Nghị quyết số 35/2000/NQ/QH10, ngày 9/6/2000, của quốc hội khóa X về việc
thi hành Luật Hôn nhân và gia đình.

Tiểu luận luật hôn nhân và gia đình 

LỜI MỞ ĐẦU

Xuất phát từ vị trí, vai trò của gia đình, từ quan niệm gia đình là tế bào của xã hội nên trong từng thời kỳ phát triển, Đảng và nhà nước ta luôn dành sự quan tâm lớn tới vấn đề gia đình, đề ra những chủ trương thể chế hóa bằng pháp luật, đường lối, chính sách của Đảng. Khi nhà nước quản lý và điều chỉnh quan hệ hôn nhân thì việc nam nữ tạo lập gia đình trở thành sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ vợ chồng, sự kiện này thể hiện dưới một khái niệm là kết hôn. Kết hôn luôn dựa trên quan điểm bình đẳng, tự nguyện. Tuy nhiên để làm phát sinh quan hệ hôn nhân thì phải đáp ứng được điều kiện kết hôn do luật định. Điều kiện kết hôn được coi là yếu tố quan trọng cần được sửa đổi, bổ sung sao cho phù hợp với biến động xã hội ngày nay. Để hiểu thêm về vấn đề này em xin được lựa chọn phân tích về " Điều kiện kết hôn và sự cần thiết phải quy định điều kiện kết hôn". Do hiểu biết còn hạn chế nên trong bài còn thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô để cho bài làm cũng như kiến thức của em thêm hoàn thiện. 

Em xin chân thành cảm ơn thầy cô!

NỘI DUNG

  1. Sự cần thiết phải quy định các điều kiện kết hôn.

  2. Khái niệm điều kiện kết hôn

Chức năng tái sản xuất ra con người là chức năng quan trọng nhất của gia đình để duy trì xã hội loài người. Khởi nguồn của gia đình là sự xác lập quan hệ hôn nhân giữa hai người khác giới, được nhà nước tôn trọng và bảo vệ. Xét về mặt lý luận, nếu xem gia đình là nền tảng của xã hội thì điều kiện kết hôn chính là yếu tố pháp lý cơ sở để xây dựng nền tảng này. Điều kiện kết hôn được quy định trong luật và cũng bị tác động bởi nền kinh tế, khi xã hội có những biến đổi mà quy định về điều kiện kết hôn không còn phù hợp nữa thì phải có sự thay đổi hợp lý. Các quy định về điều kiện kết hôn về tổng thể cũng góp phần hạn chế các tệ nạn như tảo hôn,  kết hôn không dựa trên tinh thần tự nguyện hay kết hôn với những người không đủ điều kiện kết hôn; góp phần xây dựng xã hội vững mạnh, nguồn nhân lực dồi dào và chất lượng. 

Tóm lại, việc quy định điều kiện kết hôn là hoàn toàn cần thiết, phù hợp với xu hướng phát triển , nhu cầu cần thiết của xã hội; phù hợp với chủ trương, chính sách và đường lối của Đảng.

  1. Điều kiện kết hôn.

  2. Điều kiện về độ tuổi kết hôn.

Độ tuổi là thước đo cho sự phát triển của con người, đảm bảo khả năng họ có thể thực hiện sứ mạng của mình là xây dựng gia đình và phát triển xã hội. Tuổi kết hôn được hiểu là tuổi mà một người được phép lấy chồng/vợ cũng như quyền làm hoặc buộc phải làm cha mẹ hoặc các hình thức khác đồng thuận khác. Độ tuổi và các yêu cầu khác nhau ở mỗi nước, nhìn chung thì độ tuổi kết hôn là 18 tuổi ở nhiều quốc gia, tuy nhiên nhiều nước cho phép độ tuổi kết hôn sớm hơn nếu có sự đồng ý của cha/mẹ hoặcluật pháp, hoặc trong trường hợp mang thai (nữ). Độ tuổi kết hôn không chỉ căn cứ vào khả năng sinh sản của nam, nữ mà còn đảm bảo cho việc xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững. Đồng thời đảm bảo cho con cái sinh ra được khỏe mạnh cả về thể lực lẫn trí tuệ, có thể phát triển tốt để trở thành công dân có ích cho xã hội. Con người chỉ khi đạt đến độ tuổi nhất định mới có suy nghĩ đúng đắn và nghiêm túc trong việc kết hôn của mình. Hơn nữa, khả năng tham gia vào quá trình lao động tạo ra thu nhập khi mà con người đạt đến độ tuổi nhất định. Điều đó đảm bảo cho họ có cuộc sống độc lập về kinh tế, chín muồi về tâm lý, đầy đủ ý thức xã hội để thực hiện các chức năng của gia đình và duy trì tế bào của xã hội. Quan niệm của người xưa cho rằng nữ thập tam, nam thập lục nghĩa là nữ 13 tuổi, nam 16 tuổi là đủ tuổi kết hôn. Tuy nhiên thì quan niệm ngày nay khi xã hội phát triển đã có sự thay đổi, cụ thể là theo khoản 1 điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình quy định, tuổi kết hôn của nam là từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên. Theo quy định này thì " không bắt buộc nam phải đủ từ hai mươi tuổi trở lên, nữ phải đủ mười tám tuổi trở lên mới được kết hôn; do đó nam đã bước sang tuổi hai mươi, nữ bước sang tuổi mười tám mà kết hôn là không vi phạm điều kiện về độ tuổi" ( mục 1 điểm a Nghị quyết số 02/2000/NQ - HĐTP của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn nhân gia đình năm 2000). Ví dụ như anh A sinh ngày 30/08/1994 thì đến ngày 30/08/2013 là tròn 19 tuổi, bắt đầu từ sau ngày 30/08/2013 là coi như anh A đã bước sang tuổi 20, lúc này nếu như anh A kết hôn thì không bị coi là vi phạm điều kiện kết hôn. Các trường hợp vi phạm về độ tuổi kết hôn sẽ bị xử lý hành chính theo như  Nghị định số 110/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24 tháng 9 năm 2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã; cụ thể là điều 47 Nghị định 110/2013/NĐ-CP quy định Hành vi tảo hôn, tổ chức tảo hôn "1. Cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi tổ chức lấy vợ, lấy chồng cho người chưa đủ tuổi kết hôn.

  1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi cố ý duy trì quan hệ vợ chồng trái pháp luật với người chưa đủ tuổi kết hôn mặc dù đã có quyết định của Tòa án nhân dân buộc chấm dứt quan hệ đó." hoặc có thể bị xử lý hình sự theo điều 148 BLHS quy định về tội tổ chức tảo hôn,tội tảo hôn "Người nào có một trong các hành vi sau đây, đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm:a) Tổ chức việc kết hôn cho những người chưa đến tuổi kết hôn;b) Cố ý duy trì quan hệ vợ chồng trái pháp luật với người chưa đến tuổi kết hôn mặc dù đã có quyết định của Toà án buộc chấm dứt quan hệ đó."
  2. Điều kiện về sự tự nguyện của nam, nữ trong kết hôn.

Theo từ điển tiếng Việt thì "Tự nguyện" là tự mình muốn làm, tự mình muốn như thế, không ai bắt buộc. Vậy tự nguyện của nam, nữ trong kết hôn được hiểu là mong muốn xuất phát từ ý chí của cả hai, tự mình quyết định việc kết hôn và thể hiện ý chí muốn trở thành vợ chồng. Kết hôn phải dựa trên ý chí của nam, nữ mà không bị tác động bởi bất cứ người nào khiến họ phải kết hôn trái với nguyện vọng của họ. Hai bên nam nữ mong muốn trở thành vợ chồng xuất phát từ tình yêu thương giữa họ và nhằm mục đích là cùng nhau xây dựng gia đình. Sự tự nguyện của hai bên nam nữ trong việc kết hôn phải thể hiện rõ là họ mong muốn được gắn bó với nhau, cùng nhau chung sống suốt đời nhằm thỏa mãn nhu cầu tình cảm giữa hai người. Sự tự nguyện là yếu tố quan trọng đảm bảo cho hôn nhân có thể tồn tại lâu dài và bền vững. Sự tự nguyện trong kết hôn thường được thể hiện ở việc cùng nhau đi đăng ký kết hôn. 

Pháp luật quy định việc kết hôn phải có sự tự nguyện của cả hai bên nam nữ là nhằm bảo đảm cho họ được tự do thể hiện ý chí và tình cảm khi kết hôn. Sở dĩ pháp luật quy định vậy là xuất phát từ quyền con người được công nhận trên toàn thế giới trong Bản Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền của Liên hợp quốc ngày 10 tháng 12 năm 1948, cụ thể là điều 16 " Ðiều 16:

  1. Nam và nữ trong tuổi trưởng thành có quyền kết hôn và lập gia đình, mà không bị hạn chế về lý do chủng tộc, quốc tịch hay tôn giáo. Nam nữ đều có quyền bình đẳng lúc kết hôn, trong đời sống vợ chồng và lúc ly hôn.
  2. Hôn nhân chỉ có thể tiến hành khi cả hai đều được tự do quyết định và đồng ý thật sự."

Sự tự nguyện này phải được thể hiện bởi ý chí của một người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự và đang trong tình trạng hoàn toàn tỉnh táo. Do đó, đối với những người bị mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh lý nào đó mà không có khả năng nhận thức, điều khiển hành vi của mình và bị tòa án tuyên bố là mất năng lực hành vi dân sự thì pháp luật cũng cấm kết hôn. Trong trường hợp người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự nhưng bị chấn động về thần kinh hoặc đang trong tình trạng say rượu, bia thì họ cũng tạm thời không được đăng ký kết hôn cho đến khi hồi phục khả năng nhận biết và hoàn toàn tỉnh táo.

Để đảm bảo việc kết hôn hoàn toàn tự nguyện thì pháp luật cũng có một số quy định như sau:

Thứ nhất, những người muốn kết hôn phải cùng có mặt tại cơ quan đăng ký kết hôn nộp tờ khai đăng ký kết hôn. Trong trường hợp đặc biệt, nếu một người vắng mặt do lý do chính đáng thì có thể gửi cho UBND nơi đăng ký kết hôn đơn in nộp hồ sơ vắng mặt, trong đơn nêu rõ lý do vắng mặt, có xác nhận của UBND cấp xã nơi cư trú. Đến ngày UBND tiến hành đăng ký kết hôn và trao giấy chứng nhận kết hôn thì đôi nam nữ phải có mặt để một lần nữa, cả hai trả lời trước cán bộ hộ tịch và đại diện cơ quan đăng ký kết hôn ràng, đến lúc bấy giờ họ vẫn hoàn toàn tự nguyện kết hôn với nhau.

Thứ hai, pháp luật không cho phép cử người đại diện trong việc đăng ký kết hôn đồng thời cũng không cho phép những người kết hôn vắng mặt tại lễ đăng ký két hôn. Thông thường, lễ đăng ký kết hôn của công dân Việt Nam với nhau được tiến hành tại UBND cấp xã. Tuy nhiên, đối với khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa mà điều kiện đi lại quá khó khăn thì lễ đăng ký kết hôn được tổ chức tại thôn, bản, phum, sóc nơi cư trú của một trong hai người ( điều 8 Nghị định số 32/2002/NĐ-CP ngày 27/3/2002 của Chính phủ quy định việc áp dụng Luật hôn nhân và gia đình đối với dân tộc thiểu số). Trong thực tế thì cũng có trường hợp vì lý do khách quan hay chủ quan khi tổ chức đăng kí kết hôn chỉ có một bên nam hoặc nữ thì việc kết hôn vẫn được công nhận là hợp pháp khi " trước khi tổ chức đăng ký kết hôn đã thực hiện đúng quy định tại khoản 1 điều 13 và sau khi tổ chức đăng ký kết hôn họ thực sự về chung sống với nhau" ( Mục 2 điểm c Nghị quyết số 02/20002/NĐ-HĐTP).

Thứ ba, pháp luật quy định việc kết hôn phải không có hành vi cưỡng ép kết hôn, lừa dối để kết hôn hoặc cản trở việc kết hôn tự nguyện, tiến bộ. Do đó, những trường hợp kết hôn do cưỡng ép, bị lừa dối đều coi là kết hôn trái pháp luật. Bên cạnh đó, nhà nước cũng đảm bảo sự tự nguyện bằng cách có chế tài hình sự đối với những hành vi vi phạm sự tự nguyện tiến bộ của việc kết hôn mà cụ thể là điều 146 BLHS quy định Tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ như sau: "Người nào cưỡng ép người khác kết hôn trái với sự tự nguyện của họ, cản trở người khác kết hôn hoặc duy trì quan hệ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc bằng thủ đoạn khác đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm."

  1. Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn quy định tại điều 10 Luật hôn nhân và gia đình.

Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình quy định thì việc kết hôn bị cấm trong các trường hợp sau:

READ  Kỹ năng xử lý xung đột trong tổ chức của nhà lãnh đạo, quản lý tiểu luận cao - Tài liệu text

+ Người đang có vợ hoặc chồng ( khoản 1 điều 10 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000). Hệ thống pháp luật nước ta quy định khi kết hôn nam nữ phải tuân theo nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng. Những người được quyền kết hôn phải là những người chưa có vợ có chồng hoặc đã có vợ/ chồng nhưng vợ/chồng chết hay vợ chồng đã ly hôn. Pháp luật cấm những người đang có vợ/ chồng kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác nhằm xóa bỏ chế độ đa thê dưới thời đại phong kiến. Hôn nhân một vợ một chồng lấy tình yêu giữa nam và nữ làm cơ sở xác lập hôn nhân và lấy tình yêu làm cơ sở duy trì quan hệ hôn nhân. Tuy nhiên đối với những trường hợp nam nữ lấy nhau nhưng không đăng kí kết hôn và chung sống với nhau trong quan hệ vợ chồng trên thực tế trước khi luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực thì vẫn được Nhà nước thừa nhận. Ngoài ra người đang có vợ, có chồng còn bao gồm cả những người đã sống chung với người khác như vợ chồng từ trước ngày 3/1/1987 và đang chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn.

Hiện nay vẫn còn tồn tại một số trường hợp một chồng hai vợ hoặc một vợ hai chồng. Đó là trường hợp cán bộ, bộ đội miền Nam đã có vợ, có chồng ở miền Nam nhưng khi tập kết ra Bắc lại lấy vợ, lấy chồng khác. Nhà nước đặc biệt quan tâm tới vấn đề này và coi đây là hậu quả chiến tranh, những trường hợp này theo nhà nước là cần được bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các đương sự, đặc biệt là đối với phụ nữ và con. Trên tinh thần đó Tòa án nhân dân tối cao đã ra thông tư số 60/DS ngày 22/2/1978 hướng dẫn các tòa án địa phương khi giải quyết các vụ việc liên quan. Do đó, tuy vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng nhưng không bị coi là kết hôn trái pháp luật.

Để đảm bảo cho nguyên tắc kết hôn một vợ, một chồng; Nhà nước ta đã có nhiều biện pháp nhằm ngăn chặn, ví dụ như khi đăng kí kết hôn thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký kết hôn phải xác minh tình trạng hôn nhân của các bên nam, nữ và chỉ tiến hành đăng kí kết hôn cho họ khi cả nam và nữ đều đang không có vợ, có chồng. Bên cạnh đó cũng có các biện pháp xử lý đối với những người có hành vi vi phạm như xử phạt hành chính " 1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:

  1. a) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác, chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;
  2. b) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác;
  3. c) Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;" ( khoản 1 - điều 48 -Nghị định số110/2013/NĐ-CP) Hoặc có thể bị xử lý hình sự theo điều 147 BLHS quy định tội vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng " 1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm.
  4. Phạm tội trong trường hợp đã có quyết định của Toà án tiêu huỷ việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm".

+ Người bị mất năng lực hành vi dân sự ( khoản 2 điều 10 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000). Người bị mất năng lực là một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định có thẩm quyền. ( khoản 1- điều 24 BLDS năm 2005). Pháp luật cấm không cho họ kết hôn là hoàn toàn hợp lý, bởi vì:

- Những người bị mất năng lực hành vi dân sự không có khả năng nhận biết, điều khiển hành vi nên họ không thể thực hiện được nghĩa vụ với vợ, chồng và đối với các con; không thể thực hiện trách nhiệm của mình trong gia đình.

- Khi họ bị mất năng lực hành vi dân sự cũng không thể biết được nguyện vọng thật sự của họ, khó xác định cuộc hôn nhân dựa trên tinh thần tự nguyện.

- Dựa trên căn cứ khoa học thì bệnh tâm thần là loại bệnh có tính di truyền nên các nhà làm luật cũng cho rằng, cần phải có quy định cấm những người mắc bệnh này kết hôn để đảm bảo cho con cái sinh ra được khỏe mạnh, bảo đảm cho nòi giống được phát triển tốt và bảo đảm cho hạnh phúc gia đình.

+ Cấm những người cùng dòng máu về trực hệ, những người có họ trong phạm vi ba đời hoặc đã từng có quan hệ thích thuộc kết hôn với nhau.( theo quy định tại khoản 3 và khoản  Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình).

+ Cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính.( khoản 5 điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình).

III. Những hạn chế của pháp luật về điều kiện kết hôn và phương hướng giải quyết.

  1. Độ tuổi kết hôn.

Quy định độ tuổi kết hôn trong thực tiễn áp dụng đã có một số bất cập sau:

- Theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 thì chỉ cần nam bước sang tuổi hai mươi, nữ bước sang tuổi mười tám là đủ tuổi kết hôn. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 18, 19 của Bộ luật dân sự năm 2005 thì “người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên…” và “người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ…” nên xảy ra trường hợp mâu thuẫn khi cá nhân đủ tuổi kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 nhưng lại chưa là người thành niên, chưa có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và bị hạn chế trong việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự theo quy định tại Bộ Luật Dân sự năm 2005. 

- Theo quy định tại khoản 3 Điều 57 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 thì cá nhân chỉ có thể tự mình tham gia quan hệ tố tụng khi đã đủ 18 tuổi trở lên. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì nữ bước sang tuổi 18 mà kết hôn được coi là hợp pháp và họ được quyền tự do ly hôn. Tuy nhiên, quyền tự do ly hôn của họ không thể thực hiện nếu sau khi kết hôn và đến thời điểm có yêu cầu ly hôn họ chưa đủ 18 tuổi.

- Về sự phù hợp với pháp luật chuyên ngành: Trong khi Điều 9 Luật HN&GĐ quy định độ tuổi kết hôn của nam là từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên thì trong thực tiễn, khi thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia đình và các văn bản liên quan, đặc biệt là Nghị định số 110/2009/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình, việc xác định hành vi vi phạm bạo lực gia đình, đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người vợ là khó khăn vì nếu vi phạm ngay sau khi kết hôn thì người vi phạm chưa đủ 18 tuổi (chưa thành niên). Quy định về tuổi kết hôn cũng chưa đồng bộ với các điều ước quốc tế về giới và bình đẳng giới, ví dụ công ước CEDAW về tuổi trẻ em và bình đẳng nam, nữ trong kết hôn. 

- Tuổi kết hôn so với một số nước và vùng lãnh thổ thấp hơn so với Việt Nam; áp dụng pháp luật nước ngoài đối với quan hệ HN&GĐ có yếu tố nước ngoài quy định pháp luật nước ngoài sẽ được áp dụng cho quan hệ HN&GĐ có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam nhưng nếu trái với những nguyên tắc liên quan đến quan hệ hôn nhân gia đình nhưng lại được quy định trong các văn bản pháp luật khác thì có được áp dụng hay không

Ngoài ra, thực tiễn thi hành quy định về tuổi kết hôn còn rất nhiều bất cập giữa quy định của pháp luật và tập quán về tuổi kết hôn. Ở một số địa phương, cộng đồng, người dân vẫn kết hôn theo độ tuổi trong tập quán dẫn tới tình trạng tảo hôn vẫn còn tồn tại ở các nhóm cộng đồng này. Báo cáo tổng kết của một số địa phương cho thấy, tỷ lệ kết hôn trước tuổi luật định ở vùng cao, nơi đồng bào dân tộc ít người sinh sống còn khá cao.

Kiến nghị :Nghiên cứu sửa đổi tuổi kết hôn theo hướng nam, nữ được kết hôn khi từ đủ 18 tuổi để đảm bảo cá nhân khi đăng ký kết hôn có đầy đủ năng lực hành vi dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự. Hơn nữa, cùng với điều kiện kinh tế và cuộc sống ngày càng được nâng cao, sự phát triển về thể chất, nhận thức xã hội của nam, nữ, vấn đề giới tính đã được phổ cập rộng rãi nên việc sửa đổi quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 thành “Nam, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên” là phù hợp, thể hiện quyền bình đẳng giữa nam, nữ trong việc kết hôn, phù hợp với tuổi có năng lực hành vi dân sự đầy đủ quy định trong Bộ luật Dân sự.

2.Điều kiện về sự tự nguyện của nam, nữ.

Trong luật Hôn nhân và gia đình cũng như trong nghị quyết số 02/2000/NQ - HĐTP cũng đã hướng dẫn về những trường hợp bị coi là một bên lừa dối nhưng là dưới dạng liệt kê hành vi như:lừa dối là nếu kết hôn sẽ xin việc cho, nếu kết hôn thì bảo lãnh ra nước ngoài,... chứ không có những tiêu chí như thế nào là " lừa dối", không khái quát được hết các trường hợp lừa dối khiến cho việc xác định hành vi lừa dối trong hôn nhân có nhiều vướng mắc.

Trên thực tế sự tự nguyện chỉ có thể được xác định thông qua hành vi thể hiện ý chí của người kết hôn trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận việc kết hôn. Bản thân yếu tố chủ quan bên trong như tình cảm, mong muốn , nguyện vọng của người kết hôn như thế nào thì lại khó có thể biết. Bên cạnh đó vấn đề thẩm định sự tự nguyện kết hôn có yếu tố nước ngoài còn nhiều hạn chế, nhất là trong cách tiến hành phỏng vấn. Một số cơ quan nhà nước vẫn tiến hành phỏng vấn một cách hời hợt cho qua, chưa làm đúng với tinh thần và tầm quan trọng của thủ tục phỏng vấn, cán bộ biết tiếng nước ngoài cũng không nhiều nên nhiều khi cán bộ phỏng vấn không hiểu được các đương sự nói gì.

Kiến nghị: Cần có những biện pháp giáo dục, tuyên truyền hợp lý để nâng cao tinh thần tuân thủ pháp luật của người dân. Bên cạnh đó cũng cần có những biện pháp thích hợp để nâng cao hiệu quả của việc thẩm định sự tự nguyện kết hôn và nâng cao trình độ của các cán bộ trong các cơ quan nhà nước.

3.Những trường hợp cấm kết hôn.

Thứ nhất về việc xác định thế nào là người đang có vợ, có chồng. Trên thực tế việc xác định tình trạng hôn nhân của các bên không phải lúc nào cũng đơn giản. Đặc biệt đối với những người chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng kí kết hôn. Theo quy định của pháp luật hiện hành, nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ trước ngày 3/1/1987 được pháp luật công nhận là vợ chồng. Tuy nhiên rất khó xác định họ chung sống với nhau từ thời điểm nào, thế nào là chung sống với như vợ chồng, đặc biệt đối với những cặp không sống chung thường xuyên tại một địa phương. Vì vậy dẫn đến tình trạng người đang có vợ hoặc có chồng vẫn được cơ quan có thẩm quyền chấp nhận yêu cầu đăng kí kết hôn.

Thứ hai, về quy định cấm người mất năng lực hành vi dân sự theo khoản 2 điều 10 Luật HN & GĐ. Người mất năng lực dân sự được hiểu là người bị mắc căn bệnh làm mất khả năng nhận thức, điều khiển hành vi và có quyết định của Tòa án tuyên bố người đó bị mất năng lực hành vi dân sự. Trên thực tế có rất ít người là ông, bà, cha, mẹ, anh, chị,em.... yêu cầu tòa án tuyên bố người thân của mình bị mất năng lực hành vi dân sự nên vẫn có nhiều trường hợp người mất năng lực hành vi dân sự được đăng kí kết hôn. Nhiều cơ quan đăng kí kết hôn còn lúng túng trong việc xác minh người này có thuộc diện cấm kết hôn không.

Kiến nghị: Cần sửa đổi khoản 2 điều 10 luật HN & GĐ theo hướng giống như điểm b điều 7 Luật HN & GĐ năm 1986 chỉ quy định người mất năng lực hành vi dân sự là người không có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, khi có yêu cầu đăng kí kết hôn sẽ được cơ quan giám định tư pháp xác định xem có đủ điều kiện sức khỏe không.

- Cần có quy định thủ tục rõ ràng xác minh quan hệ nhân thân của các bên kết hôn. Công tác đăng kí và quản lý hộ tịch cần quy định rõ thủ tục xác minh quan hệ nhân thân của người kết hôn, kết quả phải được thể hiện bằng văn bản. Điều này nhằm hạn chế bớt tình trạng người thuộc trường hợp cấm kết hôn vẫn kết hôn.

Traloitructuyen.com cũng giúp giải đáp những vấn đề sau đây:

  • Tiểu luận Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
  • Kết luận tiểu luận Luật hôn nhân và gia đình
  • Bài Tiểu luận luật hôn nhân và gia đình
  • Tiểu luận pháp luật đại cương về hôn nhân và gia đình
  • Kết luận Luật hôn nhân và gia đình
  • Tiểu luận pháp luật đại cương Luật hôn nhân và gia đình
  • Đề tài Tiểu luận về hôn nhân gia đình
  • Đề tài tiểu luận luật hôn nhân và gia đình
See more articles in the category: Tiểu luận